Peter F. Drucker (Nguyễn Quang A dịch)
Một tổng quan về kỷ nguyên bắt đầu vào đầu thế kỷ này, và một phân tích về những biểu thị gần đây nhất của nó: một trật tự kinh tế trong đó tri thức, chứ không phải lao động hay nguyên liệu thô hay vốn, là nguồn lực then chốt; một trật tự xã hội trong đó sự bất bình đẳng dựa trên tri thức là một thách thức lớn; và một chính thể trong đó chính phủ không thể được mong đợi để giải quyết các vấn đề xã hội và kinh tế.
Không thế kỷ nào trong lịch sử thành văn lại trải qua nhiều biến đổi xã hội và những biến đổi triệt để đến vậy như thế kỷ thứ hai mươi. Chúng, tôi gợi ý, có thể hóa ra là những sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ này của chúng ta và di sản lâu dài của nó. Trong các nước thị trường-tự do đã phát triển – chiếm ít hơn một phần năm dân số thế giới nhưng là một mô hình cho phần còn lại – lao động và lực lượng lao động, xã hội và chính thể, tất cả, trong thập niên cuối của thế kỷ này, về mặt số lượng và chất lượng là khác không chỉ với cái đã là trong các năm đầu của thế kỷ này mà cũng khác với cái đã tồn tại ở bất cứ thời kỳ nào khác trong lịch sử: về các cấu hình của chúng, về các quá trình của chúng, về các vấn đề của chúng, và về cấu trúc của chúng.
Những thay đổi xã hội nhỏ hơn nhiều và chậm hơn nhiều trong các thời kỳ trước đã gây ra các cuộc nội chiến, các cuộc phiến loạn, và các cuộc khủng hoảng trí tuệ và tinh thần. Những biến đổi xã hội tột bực của thế kỷ này đã hầu như không gây ra bất cứ sự náo động nào. Chúng đã diễn tiến với một sự va chạm tối thiểu, với những biến động tối thiểu, và, quả thực, với sự chú ý tối thiểu từ các học giả, các chính trị gia, báo giới, và công chúng. Không thể phủ nhận, thế kỷ này của chúng ta có thể đúng là tàn bạo nhất và hung dữ nhất trong lịch sử, với các cuộc chiến tranh thế giới và nội chiến của nó, với những tra tấn hàng loạt, các cuộc thanh trừng sắc tộc, các tội diệt chủng, và nạn tàn sát người Do Thái của nó. Nhưng tất cả những việc giết chóc này, tất cả những điều khủng khiếp này giáng xuống nhân loại bởi những kẻ giết người “có sức thu hút quần chúng” của thế kỷ này, chỉ đã là: những sự giết chóc vô nghĩa, những sự khủng khiếp vô nghĩa, “âm thanh và sự giận dữ, chẳng có nghĩa gì”[1]. Hitler, [...], và Mao, ba tai họa đích thực của thế kỷ này, đã phá hủy. Họ đã chẳng tạo ra cái gì cả.
Quả thực, nếu thế kỷ này có chứng minh một thứ, thì đó là sự vô tích sự của chính trị. Ngay cả người tin giáo điều nhất vào chủ nghĩa tất định lịch sử cũng khó giải thích những biến đổi xã hội của thế kỷ này như do các sự kiện chính trị nổi bật nhất gây ra, hay giải thích những sự kiện chính trị nổi bật nhất như do những biến đổi xã hội gây ra. Nhưng chính những biến đổi xã hội, giống như các dòng hải hưu ở sâu dưới bề mặt biển bị bão khuấy động, là cái có tác động lâu dài, thực ra, thường xuyên. Chúng, hơn là tất cả bạo lực của bề mặt chính trị, đã làm biến đổi không chỉ xã hội mà cả nền kinh tế, cộng đồng, và chính thể mà chúng ta sống trong đó. Thời đại của sự biến đổi xã hội sẽ không kết thúc với năm 2000 – nó thậm chí sẽ không lên đến đỉnh vào lúc đó.
Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, nông dân đã tạo thành nhóm lớn nhất duy nhất trong mọi nước. Họ đã không còn cấu thành dân cư ở mọi nơi, như họ đã tạo thành từ buổi đầu của lịch sử cho đến cuối các cuộc Chiến tranh Napoleon, một trăm năm trước đó. Nhưng nông dân vẫn đã tạo thành gần-đa số tại mọi nước phát triển trừ Anh và Bỉ - tại Đức, Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ - và, tất nhiên, ở tất cả các nước chưa phát triển. Vào thời gian trước Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất đã được coi là tiên đề hiển nhiên rằng các nước phát triển – Hoa Kỳ và Canada là những ngoại lệ duy nhất – sẽ ngày càng phải dựa vào thực phẩm nhập khẩu từ các khu vực phi công nghiệp, chưa phát triển.
Ngày nay, trong các nước thị trường-tự do đã phát triển chủ yếu, chỉ Nhật Bản là nước nhập khẩu nhiều thực phẩm. (Không có lý do, vì sự yếu kém của Nhật Bản với tư cách nhà sản xuất thực phẩm, chủ yếu là kết quả của một chính sách trợ cấp lúa gạo lỗi thời, cản trở nước Nhật phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả). Và ở tất cả các nước thị trường-tự do, kể cả Nhật Bản, nông dân ngày nay tối đa chiếm năm phần trăm dân cư và lực lượng lao động – tức là, một phần mười tỷ lệ của tám mươi năm trước. Thực ra, nông dân sản xuất chỉ chiếm ít hơn nửa dân cư trang trại, hay không hơn hai phần trăm của lực lượng lao động. Và các nhà sản xuất nông nghiệp này không còn là “nông dân” theo đúng nghĩa của từ; họ “kinh doanh nông nghiệp”, một ngành được cho là cần nhiều vốn nhất, nhiều công nghệ nhất, và nhiều thông tin nhất. Những người nông dân truyền thống gần tuyệt chủng ngay cả ở Nhật Bản. Và những người còn lại đã trở thành loài được bảo vệ, được giữ sống chỉ bằng các khoản trợ cấp khổng lồ.
Nhóm lớn thứ hai trong dân cư và lực lượng lao động của mỗi nước phát triển vào khoảng năm 1900 đã là những người đi ở. [Số phận của] họ cũng đã được coi là một quy luật tự nhiên như [của] những người nông dân. Phân loại điều tra dân số của thời đó đã định nghĩa một gia đình “tầng lớp trung lưu dưới” là gia đình thuê ít hơn ba người ở, và tỉ lệ phần trăm của lực lượng lao động tại gia đã tăng đều đặn cho đến Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Tám mươi năm sau những người đi ở tại gia hầu như chắc chắn không tồn tại ở các nước phát triển. Ít người sinh ra từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai – tức là, ít người dưới năm mươi tuổi – đã nhìn thấy bất cứ người ở nào trừ trên sân khấu hay trong phim cổ.
Trong xã hội đã phát triển của năm 2000 những người nông dân là ít ỏi nhưng là các đối tượng luyến tiếc, và những người đi ở tại gia thậm chí còn không được thế.
Thế mà những biến đổi to lớn này trong tất cả các nước phát triển đã hoàn thành mà không có nội chiến và, thực ra, trong sự im lặng hầu như hoàn toàn. Chỉ bây giờ khi dân cư nông dân của họ đã co lại gần số không thì người Pháp đô thị hoàn toàn mới to tiếng đòi rằng nước họ phải là một “nước nông thôn” với một “nền văn minh thôn quê”.
Một lý do (quả thực, lý do chính) vì sao những biến đổi đã gây ra ít náo động đến vậy đã là, vào 1900 một giai cấp mới, công nhân cổ xanh trong ngành chế tạo – những người “vô sản” của Marx – đã trở nên chi phối về mặt xã hội. Những người nông dân đã lớn tiếng thề để “trồng ít ngũ cốc và nhiều địa ngục hơn”, nhưng họ đã ít chú ý. Những người đi ở tại gia rõ ràng đã là tầng lớp bị bóc lột nhất. Nhưng trước Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất khi người ta viết về “vấn đề xã hội”, họ hiểu là các công nhân công nghiệp cổ xanh. Công nhân công nghiệp cổ xanh đã vẫn là một thiểu số khá nhỏ của dân cư và lực lượng lao động – ngay đến tận 1914 nhiều nhất họ chỉ chiếm một phần tám hay một phần sáu- và về số lượng vẫn kém xa các tầng lớp truyền thống thấp hơn của nông dân và những người đi ở. Nhưng xã hội đầu thế kỷ hai mươi đã bị ám ảnh bởi những công nhân cổ xanh, đã tập trung vào họ, đã bị họ làm cho mê mẩn.
Những người nông dân và người đi ở đã có ở mọi nơi. Nhưng với tư cách một giai cấp, họ là vô hình. Những người đi ở đã sống và làm việc ở bên trong các gia đình riêng lẻ hay ở những trang trại riêng lẻ trong các nhóm nhỏ và biệt lập gồm hai hay ba người. Những người nông dân cũng vậy, bị phân tán. Quan trọng hơn, các tầng lớp truyền thống thấp hơn này đã không được tổ chức. Quả thực, họ đã không thể được tổ chức. Các nô lệ được sử dụng trong khai mỏ hay sản xuất hàng hóa đã nổi loạn thường xuyên trong thế giới cổ xưa – tuy luôn không thành công. Nhưng không được nhắc đến trong bất cứ cuốn sách nào mà tôi đã từng đọc về một cuộc biểu tình duy nhất hay một cuộc tuần hành phản kháng duy nhất nào của những người đi ở tại gia ở bất cứ nơi nào, ở bất cứ thời gian nào. Đã có rất nhiều cuộc nổi loạn nông dân. Nhưng trừ các cuộc nổi dậy ở Trung Quốc trong thế kỷ mười chín – Phiến loạn Thái Bình vào giữa thế kỷ, và Nổi loạn Nghĩa Hòa Đoàn, ở cuối thế kỷ, cả hai cuộc đã kéo dài nhiều năm và đến gần việc lật đổ chế độ - tất cả các cuộc nổi loạn nông dân trong lịch sử đều thất bại sau vài tuần đẫm máu. Những người nông dân, lịch sử cho thấy, là rất khó để tổ chức và không chịu bị tổ chức – đó là vì sao họ bị Marx khinh thường.
Giai cấp mới, công nhân công nghiệp, cực kỳ dễ nhận thấy. Đấy là cái làm cho những công nhân này thành một “giai cấp”. Họ tất yếu đã sống trong những cụm dân cư đông đúc và trong các đô thị - ở St. Denis, bên ngoài Paris; ở Wedding của Berlin và Ottakring của Vienna; trong các thị trấn dệt của Lancashire; trong các thị trấn thép của Thung lũng Monongahela của Mỹ; và ở Kobe của Nhật Bản. Và mau chóng họ tỏ ra có thể được tổ chức một cách xuất sắc, với các cuộc đình công đầu tiên xảy ra hầu như ngay khi họ là công nhân nhà máy. Chuyện đau lòng của Charles Dickens về xung đột lao động chết người, Thời buổi Khó khăn - Hard Times, được xuất bản năm 1854, chỉ sáu năm sau Marx và Engels viết Tuyên ngôn Cộng sản.
Vào khoảng năm 1900 đã trở nên khá rõ là những công nhân công nghiệp sẽ không trở thành đa số, như Marx đã tiên đoán chỉ vài thập niên trước. Vì thế họ sẽ không áp đảo các nhà tư bản bằng số lượng rất đông của họ. Thế nhưng nhà văn cấp tiến Pháp có ảnh hưởng nhất của giai đoạn trước Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, nhà cựu-Marxist và người theo chủ nghĩa công đoàn cách mạng, Georges Sorel, đã thấy sự chấp nhận rộng rãi đối với luận đề năm 1906 của ông rằng những người vô sản sẽ lật đổ chế độ hiện hành và nắm quyền bằng tổ chức của họ và thông qua bạo lực của tổng đình công. Không chỉ Lênin đã là người biến luận đề của Sorel thành nền tảng của sự xét lại chủ nghĩa Marx của ông và đã đã xây dựng chiến lược của ông quanh nó năm 1917 và 1918. Cả Mussolini lẫn Hitler - và Mao, mười năm sau – đã xây dựng chiến lược của mình theo luận đề của Sorel. “Quyền lực nảy sinh từ nòng súng” của Mao hầu như là một trích dẫn trực tiếp từ Sorel. Công nhân công nghiệp trở thành “vấn đề xã hội” của 1900 bởi vì họ là giai cấp thấp đầu tiên trong lịch sử có thể được tổ chức và chịu bị tổ chức.
Không giai cấp nào trong lịch sử đã từng nổi lên nhanh hơn công nhân cổ xanh. Và không giai cấp nào trong lịch sử đã từng xuống dốc nhanh hơn nó.
Năm 1883, năm Marx chết, “những người vô sản” vẫn là một thiểu số không chỉ trong dân cư mà cả trong những người lao động công nghiệp. Trong công nghiệp khi đó đa số là những công nhân lành nghề được các xưởng thủ công nhỏ sử dụng, mỗi xưởng có nhiều nhất hai mươi hay ba mươi công nhân. Trong số các nhân vật phản diện của tiểu thuyết “vô sản” hay nhất thế kỷ mười chín, Công chúa Casamassima, của Henry James - được xuất bản năm 1886 (và chắc chắn chỉ Henry James có thể đặt cái tên như vậy cho một chuyện về những kẻ khủng bố thuộc giai cấp lao động!) – một là một thợ đóng sách có tay nghề cao, và nhân vật khác là một dược sĩ cũng khéo tay ngang thế. Vào quãng 1900 “công nhân công nghiệp” đã trở thành đồng nghĩa với “người đứng máy” và hàm ý việc làm ở một nhà máy cùng với hàng trăm nếu không phải hàng ngàn người. Những công nhân nhà máy này quả thực là những người vô sản của Marx – không có địa vị xã hội, không có quyền lực chính trị, không có khả năng kinh tế hay khả năng mua.
Công nhân của thời 1900 – và thậm chí của năm 1913 – đã không có lương hưu, không có ngày nghỉ được hưởng lương, không có tiền làm ngoài giờ, không được trả thêm cho làm việc Chủ nhật hay ban đêm, không có bảo hiểm y tế hay tuổi già (trừ ở Đức), không có trợ cấp thất nghiệp (trừ ở Anh sau 1911); đã chẳng có sự đảm bảo việc làm nào. Năm mươi năm sau, trong các năm 1950, công nhân công nghiệp đã trở thành nhóm lớn nhất duy nhất ở mọi nước phát triển, và công nhân công nghiệp tham gia nghiệp đoàn trong ngành sản xuất hàng loạt (khi đó áp đảo ở mọi nơi) đã đạt mức thu nhập của tầng lớp trung lưu bậc trên. Họ đã có đảm bảo việc làm rộng rãi, lương hưu, những ngày nghỉ dài được hưởng lương, và bảo hiểm thất nghiệp toàn diện hay “việc làm suốt đời”. Trên hết, họ đã đạt quyền lực chính trị. Tại Anh các nghiệp đoàn lao động đã được coi là “chính phủ thực tế”, với quyền lực lớn hơn Thủ tướng và Quốc hội, và cũng thế đã đúng ở những nơi khác. Cả ở Hoa Kỳ nữa – như ở Đức, Pháp, và Ý – các nghiệp đoàn lao động đã nổi lên như lực lượng chính trị hùng mạnh nhất và được tổ chức tốt nhất của đất nước. Và ở Nhật Bản, trong các đợt bãi công Toyota và Nissan của cuối các năm 1940 và đầu các năm 1950, họ đã đến gần việc lật đổ hệ thống và tự chiếm quyền.
Ba mươi lăm năm sau, vào 1990, công nhân công nghiệp và nghiệp đoàn của họ đã rút lui. Họ đã trở thành không đáng kể về số lượng. Trong khi những công nhân công nghiệp, người làm hay di chuyển các thứ, đã chiếm hai phần năm lực lượng lao động Mỹ trong các năm 1950, vào đầu các năm 1990 họ chỉ chiếm ít hơn một phần năm – tức là không nhiều hơn mức họ đã chiếm vào năm 1900, khi sự nổi lên như sao băng của họ bắt đầu. Tại các nước thị trường-tự do đã phát triển khác sự xuống dốc đầu tiên đã chậm hơn, nhưng sau 1980 bắt đầu tăng tốc sụt ở mọi nơi. Vào năm 2000 hay 2010, trong mọi nước thị trường-tự do đã phát triển, công nhân công nghiệp sẽ chỉ chiếm không nhiều hơn một phần tám lực lượng lao động. Quyền lực nghiệp đoàn cũng đã sụt dốc nhanh như thế.
Không giống những người đi ở tại gia, công nhân công nghiệp sẽ không biến mất – không hơn những người sản xuất nông nghiệp đã biến mất hay sẽ biến mất. Nhưng hệt như chủ trang trại nhỏ truyền thống đã trở thành người nhận trợ cấp hơn là một nhà sản xuất, công nhân công nghiệp truyền thống cũng sẽ trở thành một người làm công phụ. Chỗ của anh ta đã bị thay thế bởi “nhà công nghệ” – một người nào đó làm việc cả bằng tay lẫn bằng kiến thức lí thuyết. (Thí dụ các kỹ thuật viên máy tính, kỹ thuật viên X-quang, nhà vật lý trị liệu, các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm y khoa, kỹ thuật viên phổi, và v.v., những người cùng nhau đã tạo thành nhóm tăng nhanh nhất trong lực lượng lao động Mỹ từ 1980). Và thay cho một giai cấp – một nhóm cố kết, có thể nhận diện, xác định, và tự giác – công nhân công nghiệp có thể mau chóng trở thành chỉ một “nhóm áp lực” khác.
Những người chép biên niên sử về sự tăng lên của công nhân công nghiệp thường nêu bật các tình tiết bạo lực – đặc biệt những đụng độ giữa những người đình công và cảnh sát, như trong cuộc đình công Pullman của Mỹ. Lý do có lẽ là, các nhà lý luận và các nhà tuyên truyền của chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa vô chính phủ, và chủ nghĩa cộng sản – bắt đầu với Marx và tiếp tục đến Herbert Marcuse vào các năm 1960 – đã không ngớt viết và nói về “cách mạng” và “bạo lực”. Trên thực tế sự tăng lên của công nhân công nghiệp đã là phi bạo lực một cách rõ rệt. Bạo lực tàn ác của thế kỷ này – các cuộc chiến tranh thế giới, thanh trừng sắc tộc, và v.v. – tất cả đã là bạo lực từ bên trên hơn là bạo lực từ bên dưới; và nó đã không liên quan đến những biến đổi xã hội, dù là sự teo đi của nông dân, sự biến mất của những người đi ở tại gia, hay sự tăng lên của công nhân công nghiệp. Quả thực, thậm chí chẳng còn ai thử giải thích những chấn động lớn này như một phần của “cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản” nữa, như thuật hùng biện chuẩn Marxist chỉ mới ba mươi năm trước.
Ngược với những tiên đoán Marxist và nghiệp đoàn chủ nghĩa, sự leo lên của công nhân công nghiệp đã không gây mất ổn định xã hội. Thay vào đó nó đã nổi lên như sự phát triển xã hội tạo ổn định nhất của thế kỷ. Nó giải thích vì sao sự biến mất của nông dân và người ở tại gia lại không gây ra khủng hoảng xã hội nào. Cả sự bỏ chạy khỏi đồng ruộng lẫn sự bỏ chạy khỏi dịch vụ nội trợ đã là tự nguyện. Những người nông dân và những người đầy tớ đã không bị “đẩy ra” hay bị “thải ra”. Họ đã đi làm thuê trong công nghiệp càng nhanh càng tốt. Việc làm công nghiệp đã không đòi hỏi các kỹ năng mà họ không có, và không đòi hỏi thêm tri thức. Thực ra, xét mọi mặt, những người nông dân đã có nhiều kỹ năng hơn kỹ năng cần để là một người đứng máy trong một nhà máy sản xuất hàng loạt – và nhiều người đi ở tại gia cũng thế. Không thể phủ nhận, công việc công nghiệp được trả công tồi cho đến Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất. Nhưng nó được trả khá hơn công việc đồng áng hay việc nội trợ. Thời gian làm việc của công nhân công nghiệp ở Hoa Kỳ cho đến 1913 – và ở một số nước, kể cả Nhật Bản, cho đến Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai – đã dài. Nhưng thời gian làm việc của họ ngắn hơn của nông dân và của người ở. Hơn nữa, họ làm việc vào những giờ được định rõ: phần còn lại trong ngày là của họ, điều chẳng đúng cả với công việc đồng áng lẫn công việc nội trợ. Các sách lịch sử ghi chép sự bẩn thỉu của ngành công nghiệp ban đầu, sự nghèo đói của công nhân công nghiệp, và sự bóc lột họ. Công nhân quả thực đã sống trong bẩn thỉu và nghèo khó, và họ đã bị bóc lột. Nhưng họ đã sống khá hơn những người ở trang trại hay ở gia đình, và nhìn chung được đối xử tốt hơn.
Bằng chứng của việc này là tỷ lệ tử vong trẻ em đã sụt ngay khi những người nông dân và những người đi ở tại gia chuyển sang làm việc công nghiệp. Về mặt lịch sử, các đô thị đã chưa bao giờ tái tạo chính mình. Để duy trì chúng đã phải phụ thuộc liên tục vào những người mới đến từ thôn quê. Điều này vẫn đúng vào giữa thế kỷ mười chín. Nhưng với sự lan rộng của việc làm nhà máy, thành phố đã trở thành trung tâm của sự tăng trưởng dân cư. Một phần điều này là kết quả của các biện pháp y tế công cộng mới: làm sạch nước, thu gom và xử lý rác, kiểm dịch chống các dịch bệnh, tiêm chủng chống các bệnh. Các biện pháp này – và chúng đã có hiệu quả chủ yếu ở thành phố - đã chống lại, hay chí ít kiềm chế các mối nguy của sự tập hợp đông đúc cái đã làm cho đô thị truyền thống là một mảnh đất sinh sôi cho bệnh dịch hạch. Nhưng yếu tố lớn nhất duy nhất cho sự giảm theo hàm số mũ của tỷ lệ tử vong trẻ em khi công nghiệp hóa lan rộng đã chắc chắn là sự cải thiện về các điều kiện sống do nhà máy mang lại. Nhà ở và dinh dưỡng đã trở nên tốt hơn, và công việc nặng nhọc và các tai nạn đã gây tổn hại ít hơn. Sự sụt giảm tỷ lệ tử vong trẻ em – và với nó là sự tăng bùng nổ dân số - tương quan chỉ với một sự phát triển: công nghiệp hóa. Nhà máy ban đầu quả thực là “Nhà máy sa tăng - Satanic Mill” của bài thơ vĩ đại của William Blake. Nhưng thôn quê đã chẳng là “Đồng xanh dịu dàng của nước Anh” mà Blake ca ngợi; nó đã là một khu nhà ổ chuột gây ấn tượng nhưng thậm chí sa tăng hơn.
Đối với những người nông dân và người đi ở, công việc công nghiệp đã là một cơ hội. Thực ra, nó đã là cơ hội đầu tiên mà lịch sử xã hội đã cho họ để cải thiện mình một cách đáng kể mà không phải di cư. Trong các nước thị trường-tự do phát triển qua 100 hay 150 năm vừa qua mỗi thế hệ đã có khả năng mong đợi khấm khá hơn đáng kể so với thế hệ trước đó. Lý do chính là những người nông dân và đầy tớ đã có thể và đã trở thành những công nhân công nghiệp.
Bởi vì những công nhân công nghiệp được tập trung vào các nhóm, nghiên cứu có hệ thống về năng suất của họ đã là có thể. Bắt đầu trong năm 1881, hai năm trước khi Marx chết, nghiên cứu có hệ thống về công việc, các nhiệm vụ, và các công cụ đã nâng năng suất lao động chân tay về chế tạo và di chuyển các thứ tăng lên ba đến bốn phần trăm tính gộp trung bình hàng năm – đối với mức tăng năm mươi lần về đầu ra trên công nhân qua 110 năm. Tất cả lợi ích kinh tế và xã hội gia tăng của thế kỷ này dựa vào điều này. Và ngược với cái “mọi người đều biết” trong thế kỷ mười chín – không chỉ Marx mà tất cả những người bảo thủ nữa, như J. P. Morgan, Bismarck, và Disraeli – hầu như tất cả những lợi lộc này đã dồn cho công nhân công nghiệp, một nửa số đó ở dạng thời gian làm việc giảm đột ngột (với sự cắt giảm từ 40 phần trăm ở Nhật đến 50 phần trăm ở Đức), và một nửa ở dạng tăng hai mươi lăm lần lương của những công nhân công nghiệp, những người chế tạo hay di chuyển các thứ.
Như thế đã có các lý do xác đáng vì sao sự tăng lên của công nhân công nghiệp đã yên bình hơn là dữ dội, nói chi đến cách mạng. Nhưng cái gì giải thích cho sự xuống dốc của công nhân công nghiệp cũng đã diễn ra yên bình ngang vậy và hầu như hoàn toàn không có sự phản kháng xã hội, sự chấn động, sự trục trặc nghiêm trọng nào, chí ít ở Hoa Kỳ?
Nguồn: The Age of Social Transformation,The Atlantic Monthly, November 1994, Volume 274, No. 5; pages 53-80.
Theo:http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4161-thoi-dai-bien-doi-xa-hoiky-1.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.