T/S Alan Phan
15 April 2013
Một quốc gia hủy diệt thiên nhiên sẽ
tự hủy diệt. Núi rừng là lá phổi của đất nước, thanh lọc không khí và
tạo năng lượng mới cho con người (Franklin Roosevelt)
Năm 1955, tôi vừa 10 tuổi, cha tôi gởi
cả gia đình lên Dalat. Ông nói môi trường sống ở Saigon quá xô bồ, ô
nhiễm và thiếu văn hóa (nếu ông sống ở Saigon ngày nay thì chắc ông sẽ
gởi tôi lên…mặt trăng ở với chị Hằng…hay một chị chân ngắn nào đó). Mẹ
tôi mua một căn nhà ở 60 dốc Duy Tân, buôn áo quần trẻ em, và 4 anh chị
em bắt đầu khám phá một thiên đường mới thật nhiều cây xanh hoa lạ.
Dalat 1955
Lúc đó, Dalat lạnh thấu buốt tận lòng.
Ngày nào, chúng tôi cũng co ro trong chăn, mơ thấy các bí hiểm về rừng
sâu qua những huyền thoại, cười giỡn khúc khích khi dọa hù ma quỷ, và
miên man với một thiên nhiên dù hoang dã nhưng rất trong lành.
Hồi đó người Thượng (giờ gọi là người
dân tộc) dù sống trong thôn bản của họ vẫn lui tới giao lưu với người
Kinh khắp nơi, nhất là quanh khu chợ Hòa Bình. Họ hiền lành trong những
sắc phục cổ truyền nhiều mầu sắc, bập bẹ tiếng Việt và tạo một cảnh quan
sống động hài hòa. Trong ký ức của tôi, ấn tượng nhất là những người
phụ nữ, ở trần khoe bộ ngực thường lớn và cứng cáp như các cô gái Âu Mỹ
trong phim rạp hay sách vở. Với tiềm thức “khát sữa” của tôi, đây là
hình ảnh tuyệt vời của người tình trong mộng. Tôi mơ làm một chàng trai
Thượng vạm vỡ, có vài bạn gái, uống rượu cần mỗi đêm và cùng nhau nhẩy
nhót cạnh bờ suối trăng.
Một lần, khi đi chơi thật sâu vào rừng,
tôi và mấy đứa bạn đến một giong suối có mấy cô gái Thượng đang tắm.
Ngược với thái độ của mấy cô gái Kinh là thét thất thanh, các cô Thượng
vẫy chào chúng tôi như những người bạn lâu ngày vừa gặp. Lúc lên lau
người, một cô thấy tôi trân trối nhìn vào bộ ngực cao bồng của mình, lấy
tay tôi đặt nhẹ lên ngực mình, cười vang, rồi cùng bạn biến mất sau
những tàng cây um tùm. Tôi nghĩ mình vừa được ban phước Thánh.
Cha tôi vẫn ở Saigon làm ăn và lái xe
thăm gia đình mỗi tuần. Một chuyến đi thăm, ông buồn ngủ, xe bị lật
xuống đèo Prenn, ông không lái xe nữa và dọn cả gia đình vế lại Saigon.
Tôi rưng rưng nước mắt giã từ rặng núi Lang Biang, thác Cam Ly, hồ Than
Thở và những ngọn đồi quanh hồ Xuân Hương. Cả những căn villa nhiều hoa
hồng, tiệm ăn Eau Vive, nhà Thủy Tạ, ngôi thánh đường trên dốc cao và
những đứa bạn đã cùng nhau thám hiểm các khu rừng lân cận theo đúng tinh
thần của Robinson Crusoe. Tôi cũng nhớ tha thiết những người Thượng
hiền lành và những người tình trong mộng.
Dalat 1969
Tôi gặp lại Dalat lần thứ hai khi ở Mỹ
về và lên dậy học tại Trường Võ Bị. Những người Thượng vẫn còn lui tới
và thành phố vẫn dầy đặc sương mù mỗi đêm. Những con đường dốc vẫn đầy
hoa bất tử (immortel) trước những căn villa buồn lặng và đôi má các
thiếu nữ vẩn ửng hồng trong ánh nắng đầu ngày. Tôi đã trưởng thành và
tìm một “mình” mới lạ trong một cuộc tình cháy bỏng và ngắn ngủi nhưng
cũng đầy thơ mộng. Chiến tranh bao quanh với tiếng đại bác vọng về mỗi
đêm nhưng Dalat lại may mắn không bị tổn hại, và trở thành một ốc đảo
thanh bình cho những tấm lòng thương yêu thật bình dị.
Trong dâu biển của đời mình, Dalat có lẽ
là điểm sáng chói lòa của hạnh phúc. Cái nhỏ bé, văn minh và thẹn thùng
của Dalat là cái quyến rũ đậm đà thầm lặng của thiên nhiên và con người
khi hài hòa. Trong khung hình của ký ức, những người Thượng chất phác
trong lành tạo một “bối cảnh” (backdrop=danh từ của phim ảnh) của những
câu chuyện tử tế và có hậu.
Dalat 2013
Tôi quay lại Dalat tuần rồi sau 2 năm
vắng bóng. Cái thất vọng vào chuyến đi chơi 2011 có lẽ đã là một dự đoán
cho cái tuyệt vọng ngày hôm nay. Từ một đứa con gái dậy thì, Dalat đã
già nua phong trần như một vũ nữ xế chiều, không còn nhân cách.
Backdrop đã phai nhạt: những người
Thượng đã biến mất hay họ không còn biết đến những sắc phục cổ truyền.
Những vườn hoa trước các villa và những chiếc áo dài không còn tô điểm
cho các con đường thành phố; bây giờ mọc đầy những căn nhà hộp quẹt với
mầu sắc lộn xộn và bảng hiệu tạp nham. Xa xa, những ngọn núi đã bắt đầu
trọc lóc vì nạn phá rừng làm rẫy. Thay vì mùi hoa mimosa hay dạ lý những
đêm mùa đông, Dalat hôi thối đến tận cùng với mùi phân bón và rác rưởi
quanh tỉnh. Với số lượng cây cỏ bị chặt đốn, Dalat nóng gần bằng Saigon,
và dĩ nhiên, với sự du nhập của văn hóa xe máy, khói bụi và tiếng ồn
cũng bắt đầu mọc rễ.
Tôi đưa vài người bạn nước ngoài đến nhà
Thủy Tạ để giới thiệu “môi trường văn hóa cà phê” mà Vũ Trung Nguyên
hay rao giảng. Vừa được 5 phút, chúng tôi phải bỏ chạy vì mùi xú uế nồng
nặc từ tảo đỏ và xác cá chết của hồ Xuân Hương. Tôi vẫn không bỏ cuộc:
tôi dẫn các bạn đó đến hồ Tuyền Lâm. Các dự án khu nghĩ dưỡng bao quanh
khu hồ, dang dở bỏ ngang khi thị trường bất động sản đi vào khủng hoảng.
Cũng may cho hồ, nếu GDP tiếp tục tăng trưởng trên 10% mấy năm qua, có
lẽ hồ Tuyền Lâm cũng đã cùng số phận với hồ Xuân Hương, thác Cam Ly và
bao địa danh khác của thời tôi còn trẻ.
Dalat đã chết lâm sàng. Không biết ngày nào sẽ đem chôn?
Tôi bay về lại Saigon ngay ngày hôm sau.
Tôi không muốn nấn ná nhìn dung nhan tiều tụy của người con gái mình đã
yêu. Dọc đường, tôi vặn IPod nghe lại bài hát Chiều Vàng của Nguyễn Văn
Khánh. Có lẽ đây là bài điếu cho đám tang của Dalat. Hay sẽ là lời phán
của Gandhi,”Trái đất cung ứng đầy đủ cho nhu cầu (need) của con người,
nhưng không bao giờ đủ cho lòng tham (greed) của họ.”
“Năm tháng trôi qua sóng gió đời…Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi…”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.