PETER F. DRUCKER (Nguyễn Quang An dịch)
Những người lao động tri thức là các nhà tư bản mới
MỘT thế kỷ trước, tuyệt đại đa số người trong các nước phát triển đã làm việc với bàn tay mình: ở các trang trại, đi ở tại gia, trong các cửa hiệu thủ công nhỏ và (khi đó vẫn chỉ một thiểu số nhỏ) trong các nhà máy. Năm mươi năm sau, tỷ lệ của những người lao động chân tay trong lực lượng lao động Mỹ đã giảm xuống khoảng phân nửa, và các công nhân nhà máy đã trở thành nhóm lớn nhất đơn nhất của lực lượng lao động, cấu thành 35% của toàn bộ. Bây giờ, thêm 50 năm nữa, ít hơn một phần tư những người lao động Mỹ kiếm sống từ việc làm chân tay. Công nhân nhà máy vẫn chiếm đa số của những người lao động chân tay, nhưng phần của họ trong toàn bộ lực lượng lao động xuống còn khoảng 15%—ít nhiều quay lại mức nó đã là 100 năm trước.
Trong tất các nước phát triển lớn, Mỹ bây giờ có tỷ lệ công nhân nhà máy nhỏ nhất trong lực lượng lao động của nó. Anh không đi sau mấy. Tại Nhật Bản và Đức, phần của họ vẫn khoảng một phần tư, nhưng co lại đều đặn. Trong chừng mực nào đó đấy là vấn đề định nghĩa. Các nhân viên xử lý dữ liệu của một hãng chế tạo, như Công ty Ford Motor, được tính như làm việc trong ngành chế tạo, nhưng khi Ford outsource [thuê ngoài làm] xử lý dữ liệu của nó, cũng những người làm chính xác cùng công việc ấy ngay lập tức được xác định lại như những người làm dịch vụ. Tuy nhiên, điều này không quan trọng. Nhiều nghiên cứu về các doanh nghiệp chế tạo đã cho thấy rằng sự sụt giảm số người thực sự làm trong nhà máy đại thể cũng giống như sự co lại được báo cáo trong những con số quốc gia.
Trước Chiến tranh Thế giới I, thậm chí đã chẳng có một lời nào về những người kiếm sống khác hơn công việc chân tay. Thuật ngữ “công nhân dịch vụ” được tạo ra khoảng năm 1920, nhưng hóa ra là khá gây lạc lối. Những ngày này, ít hơn một nửa của tất cả những người lao động không chân tay thực sự là những người làm dịch vụ. Nhóm tăng nhanh duy nhất trong lực lượng lao động, ở Mỹ và ở mọi nước phát triển, là “những người lao động tri thức”—những người mà việc làm của họ đòi hỏi sự giáo dục chính quy và tiên tiến. Bây giờ họ chiếm một phần ba lực lượng lao động Mỹ, đông hơn các công nhân nhà máy theo tỷ lệ hai trên một. Thêm 20 năm nữa hay khoảng ấy, chắc họ sẽ chiếm hai phần năm lực lượng lao động của tất cả các nước giàu.
Các thuật ngữ “các ngành tri thức- knowledge industries”, “công việc tri thức- knowledge work” và “người lao động tri thức- knowledge worker” mới chỉ có 40 tuổi. Chúng được đặt ra khoảng năm 1960, đồng thời nhưng độc lập nhau; thuật ngữ đầu bởi Fritz Machlup, một nhà kinh tế học Princeton, thuật ngữ thứ hai và thứ ba bởi tác giả này. Bây giờ tất cả mọi người dùng chúng, nhưng cho đến tận bây giờ hầu như chẳng có ai hiểu các hệ lụy của chúng đối với các giá trị con người và ứng xử con người, đối với việc quản lý con người và làm cho họ có hiệu quả, đối với kinh tế học và đối với chính trị. Tuy vậy, cái đã rõ rồi là, xã hội tri thức và nền kinh tế tri thức đang nổi lên sẽ khác hoàn toàn xã hội và nền kinh tế cuối thế kỷ 20, theo những cách sau đây.
Thứ nhất, những người lao động tri thức, một cách tập thể, là các nhà tư bản mới. Tri thức đã trở thành nguồn lực then chốt, và nguồn lực khan hiếm duy nhất. Điều này có nghĩa rằng một cách tập thể những người lao động tri thức sở hữu tư liệu sản xuất. Nhưng với tư cách một nhóm, họ cũng là các nhà tư bản theo nghĩa cũ: thông qua tiền đóng góp của họ trong các quỹ hưu trí và các quỹ tương tế, họ đã trở thành các cổ đông đa số và những người chủ của nhiều doanh nghiệp lớn trong xã hội tri thức.
Tri thức hữu hiệu là tri thức chuyên dụng. Điều đó có nghĩa là, những người lao động tri thức cần sự tiếp cận đến một tổ chức – một tập thể gom một dàn người lao động tri thức và áp dụng chuyên môn sâu của họ cho một sản phẩm cuối cùng chung. Giáo viên toán tài giỏi nhất trong một trường trung học là hữu hiệu chỉ với tư cách một thành viên của hội đồng giáo viên. Nhà tư vấn tài giỏi nhất về phát triển sản phẩm là hữu hiệu chỉ nếu có một doanh nghiệp có tổ chức và có đủ khả năng để biến lời khuyên của nhà tư vấn thành hành động. Nhà thiết kế phần mềm vĩ đại nhất cần một nhà sản xuất phần cứng. Nhưng đến lượt, trường trung học cần giáo viên toán, doanh nghiệp cần chuyên gia về phát triển sản phẩm, và nhà chế tạo PC cần nhà lập trình phần mềm. Những người lao động tri thức vì thế xem mình ngang với những người thuê dịch vụ của họ, như các “nhà chuyên nghiệp” hơn là như những “người làm công”. Xã hội tri thức là xã hội của những người lớn (thâm niên cao - senior) và nhỏ (ít tuổi-junior) hơn là của các ông chủ (boss) và các thuộc cấp (subordinate).
Của anh ấy và của chị ấy
Tất cả điều này có những hệ lụy quan trọng đối với vai trò của phụ nữ trong lực lượng lao động. Về mặt lịch sử, sự tham gia của phụ nữ vào thế giới lao động đã luôn bằng với sự tham gia của đàn ông. Quý bà rảnh rỗi ngồi trong phòng khách của mình đã là ngoại lệ hiếm có nhất trong những ngoại lệ ngay cả trong tầng lớp giàu có thế kỷ 19. Một trang trại, một xưởng thủ công hay một cửa hiệu nhỏ đã phải được vận hành bởi một cặp để có thể tồn tại được. Mãi đến đầu thế kỷ 20, một bác sĩ không thể hành nghề cho đến khi đã lấy vợ; ông cần một bà vợ để sắp xếp các cuộc hẹn, mở cửa, lấy lai lịch của bệnh nhân và gửi hóa đơn.
Nhưng tuy phụ nữ đã luôn làm việc, từ thời thượng cổ công việc mà họ đã làm là khác công việc của đàn ông. Đã có việc làm của phụ nữ và việc làm của đàn ông. Vô số phụ nữ trong Kinh Thánh đi đến giếng lấy nước, nhưng không có người đàn ông nào. Đã chẳng bao giờ có một ông cô [không vợ]. Công việc tri thức, mặt khác, là “hợp cả nam lẫn nữ”, không phải vì áp lực nam nữ bình quyền mà bởi vì nó có thể được cả hai giới làm tốt ngang nhau. Thế đó, những việc làm tri thức hiện đại đầu tiên đã được nghĩ ra chỉ cho giới này hay giới kia. Dạy học như một nghề được sáng chế ra năm 1794, khi trường Ecole Normale được thành lập ở Paris, và đã được coi nghiêm ngặt như việc làm của đàn ông. Sáu mươi năm sau, trong chiến tranh Crime năm 1853-56, Florence Nightingale đã lập ra nghề tri thức mới thứ hai, y tá. Công việc này đã được coi là công việc riêng cho phụ nữ. Nhưng vào năm 1850 dạy học ở mọi nơi đã trở nên hợp cho cả nam lẫn nữ, và trong năm 2000 hai phần năm học sinh ở các trường y tá Mỹ là đàn ông.
Đã không có nữ bác sĩ nào ở Châu Âu cho đến các năm 1890. Nhưng một trong những phụ nữ châu Âu có bằng bác sĩ y khoa sớm nhất, nhà giáo dục Ý vĩ đại Maria Montessori, được tường thuật là đã nói: “Tôi không phải là một nữ bác sĩ; tôi là một bác sĩ người tình cờ là một phụ nữ”. Cùng logic như vậy áp dụng cho tất cả công việc tri thức. Những người lao động tri thức, bất luận giới tính của họ là gì, là các nhà chuyên nghiệp, áp dụng cùng tri thức, làm cùng công việc, bị chi phối bởi cùng tiêu chuẩn và được đáng giá bởi cùng kết quả.
Những người lao động tri thức bậc cao như các bác sĩ, các luật sư, các nhà khoa học, các giáo sĩ và giáo viên đã từng có từ lâu, tuy số lượng của họ đã tăng theo hàm số mũ trong 100 năm qua. Nhóm lớn nhất của những người lao động tri thức, tuy vậy, đã hầu như không tồn tại cho đến đầu thế kỷ 20, và chỉ cất cánh sau Chiến tranh Thế giới II. Họ là các chuyên viên tri thức [knowledge technologists]—những người làm phần lớn công việc của mình bằng tay mình (và ở chừng mực đó là những người kế vị của các công nhân có tay nghề), nhưng lương của họ được xác định bởi tri thức ở giữa hai tai họ, thu được trong giáo dục chính quy hơn là qua học nghề. Họ bao gồm kỹ thuật viên X-quang, các nhà vật lý trị liệu, các chuyên gia siêu âm, những người nghiên cứu trường hợp bệnh tâm thần, các kỹ thuật viên nha khoa và rất nhiều loại khác. Trong 30 năm qua, các kỹ thuật viên y khoa đã là mảng tăng nhanh nhất của lực lượng lao động ở Mỹ, và có lẽ cả ở Anh nữa.
Trong 20 hay 30 năm tới số các chuyên viên tri thức về máy tính, chế tạo và giáo dục chắc sẽ tăng còn nhanh hơn. Các kỹ thuật viên văn phòng như các trợ lý luật sư [paralegal] cũng đang tăng lên nhiều. Và không hề ngẫu nhiên rằng “thư ký” của ngày hôm qua nhanh chóng trở thành “trợ lý”, trở thành nhà quản lý văn phòng và công việc của thủ trưởng. Trong vòng hai hay ba thập kỷ, các chuyên viên tri thức sẽ trở thành nhóm chi phối trong lực lượng lao động ở tất cả các nước phát triển, chiếm cùng vị trí như những công nhân nhà máy liên kết thành nghiệp đoàn đã chiếm tại đỉnh điểm quyền lực của họ trong các năm 1950 và 1960.
Cái quan trọng nhất về những người lao động tri thức này là, họ không tự nhận dạng mình như “những công nhân” mà như “các nhà chuyên nghiệp”. Nhiều trong số họ dành nhiều thời gian của mình để làm công việc về cơ bản không có kỹ năng, thí dụ, xếp ngăn nắp giường bệnh, trả lời điện thoại hay sắp xếp hồ sơ. Tuy nhiên, cái nhận diện họ trong đầu óc của chính họ và trong tâm trí của công chúng là phần việc làm của họ gắn với việc đưa tri thức chính quy vào làm việc. Đó là cái làm cho họ là những người lao động tri thức đầy đủ tư cách.
Những người lao động như vậy có hai nhu cầu chính: giáo dục chính quy làm cho họ có khả năng tham gia công việc tri thức ở nơi đầu tiên, và sự giáo dục liên tục suốt cuộc đời làm việc của họ để giữ cho tri thức của họ được cập nhật. Đối với các chuyên gia tri thức bậc cao như các bác sĩ, giáo sĩ, luật sư, giáo dục chính quy đã có trong nhiều thế kỷ. Nhưng đối với các chuyên viên tri thức, cho đến nay chỉ có vài nước cung cấp sự chuẩn bị có hệ thống và được tổ chức. Trong vài thập niên tới, các định chế giáo dục để chuẩn bị cho các chuyên viên tri thức sẽ tăng nhanh ở tất cả các nước phát triển và các nước đang nổi lên, hệt như các định chế mới để thỏa mãn các đòi hỏi mới đã luôn xuất hiện trong quá khứ. Lần này cái khác là nhu cầu giáo dục liên tục của những người trưởng thành đã được giáo dục tốt và rất thành thạo rồi. Giáo dục ở nhà trường theo truyền thống dừng lại khi bắt đầu làm việc. Trong xã hội tri thức nó không bao giờ ngừng.
Tri thức không giống các kỹ năng truyền thống, những cái thay đổi rất chậm chạp. Một bảo tàng gần Barcelona ở Tây Ban Nha có vô số công cụ dùng tay được sử dụng bởi các thợ thủ công lành nghề của đế chế La Mã cổ mà bất kể thợ thủ công ngày nay nào cũng có thể nhận ra ngay lập tức, bởi vì chúng rất giống các công cụ vẫn được dùng. Đối với mục đích đào tạo kỹ năng, vì thế, đã là hợp lý để giả thiết rằng bất cứ cái gì đã học được ở tuổi 17 hay 18 sẽ kéo dài suốt cuộc đời.
Ngược lại, tri thức mau chóng trở nên lỗi thời, và những người lao động tri thức thường xuyên phải quay lại trường học. Giáo dục liên tục của những người trưởng thành đã được đào tạo nhiều rồi, vì thế, sẽ là lĩnh vực tăng trưởng lớn trong xã hội tiếp theo. Nhưng phần lớn sẽ được tiến hành không theo con đường truyền thống, trải từ các seminar cuối tuần đến các chương trình đào tạo trực tuyến, và ở bất cứ nơi nào, từ một đại học truyền thống đến nhà ở của sinh viên. Cách mạng thông tin, được kỳ vọng có một tác động to lớn lên giáo dục và lên các trường và đại học truyền thống, sẽ có lẽ có một tác động còn lớn hơn nữa lên giáo dục liên tục của những người lao động tri thức.
Những người lao động tri thức thuộc đủ loại thường đồng nhất mình với tri thức của họ. Họ tự giới thiệu mình bằng cách nói “tôi là một nhà nhân chủng học” hay “tôi là một nhà vật lý trị liệu”. Họ có thể tự hào về tổ chức mà họ làm việc cho, dù là một công ty, một đại học hay một cơ quan chính phủ, nhưng họ “làm việc tại tổ chức”; họ không “thuộc về nó”. Phần lớn trong số họ có lẽ cảm thấy họ có nhiều cái chung hơn với ai đó làm cùng nghề trong một định chế khác hơn là với các đồng nghiệp làm trong lĩnh vực tri thức khác ở chính cơ quan mình.
Tuy sự nổi lên của tri thức như một nguồn lực quan trọng ngày càng có nghĩa là sự chuyên môn hóa, những người lao động tri thức rất dễ di động bên trong chuyên môn của mình. Họ chẳng coi việc chuyển từ một đại học, một công ty hay một nước sang nơi khác, là gì cả, chừng nào họ vẫn ở bên trong cùng lĩnh vực tri thức. Có nhiều bàn luận về cố gắng phục hồi lại sự trung thành của những người lao động tri thức đối với tổ chức sử dụng lao động của họ, nhưng các nỗ lực như vậy sẽ chẳng đi đến đâu cả. Những người lao động tri thức có thể có một sự gắn kết với một tổ chức và cảm thấy thoải mái với nó, nhưng lòng trung thành căn bản của họ chắc là đối với ngành tri thức chuyên sâu của họ.
Tri thức không mang tính thứ bậc. Hoặc nó liên quan đến tình huống cho trước, hoặc nó không. Một nhà phẫu thuật tim mở có lẽ được trả nhiều tiền hơn nhiều, chẳng hạn, một bác sĩ chuyên trị khuyết tật tiếng nói, và hưởng một địa vị xã hội cao hơn nhiều, thế mà nếu một tình huống cá biệt đòi hỏi sự phục hồi chức năng (nói) của một nạn nhân bị đột quỵ, thì trong trường hợp đó tri thức của bác sĩ chuyên trị khuyết tật tiếng nói ưu việt hơn nhiều tri thức của nhà phẫu thuật. Đấy là vì sao những người lao động tri thức thuộc mọi loại coi mình không như các thuộc cấp mà như các nhà chuyên nghiệp, và kỳ vọng được đối xử như vậy.
Tiền là quan trọng đối với những người lao động tri thức như đối với bất kỳ ai khác, nhưng họ không chấp nhận nó như thước đo cuối cùng, họ cũng chẳng coi tiền như một thứ thay thế cho thành tích và thành tựu chuyên môn. Tương phản sắc nét với các công nhân của ngày hôm qua, mà với họ một việc làm trước hết là một sinh kế, hầu hết người lao động tri thức xem việc làm của họ như một cách sống.
Đi lên mãi
Xã hội tri thức là xã hội con người đầu tiên, nơi tính lưu động lên trên là vô hạn về mặt tiềm năng. Tri thức khác tất cả tư liệu sản xuất khác ở chỗ nó không thể được thừa kế hay được truyền lại. Nó phải đạt được một lần nữa bởi tất cả các cá nhân, và mọi người xuất phát với sự vô minh hoàn toàn như nhau.
Tri thức phải được đưa vào dạng trong đó nó có thể được dạy, điều đó có nghĩa nó phải trở thành công cộng. Nó luôn luôn có thể tiếp cận được một cách phổ quát, hay nhanh chóng trở thành như vậy. Tất cả điều này làm cho xã hội tri thức là một xã hội rất lưu động. Bất cứ ai có thể kiếm được bất cứ tri thức nào ở một trường, qua một quá trình học được hệ thống hóa, hơn là phục vụ một ông thầy với tư cách một người học việc.
Cho đến 1850 hay có lẽ thậm chí 1900, đã có ít tính lưu động trong bất cứ xã hội nào. Hệ thống đẳng cấp Ấn Độ, trong đó dòng dõi xác định không chỉ địa vị của một cá nhân trong xã hội mà cả nghề nghiệp nữa, đã chỉ là một trường hợp cực đoan. Trong hầu hết xã hội khác cũng thế, nếu người bố đã là nông dân, thì con trai là nông dân, và các con gái lấy chồng nông dân. Nhìn chung, tính lưu động duy nhất đã là theo hướng xuống, do chiến tranh hay bệnh tật, may rủi cá nhân hay các tập quán xấu như uống rượu hoặc cờ bạc gây ra.
Ngay cả ở Mỹ, đất nước của các cơ hội vô hạn, đã có ít tính lưu động hướng lên hơn là người ta thường tin. Tuyệt đại đa số các nhà chuyên nghiệp và quản lý ở Mỹ trong nửa đầu thế kỷ 20 đã vẫn là con cái của các nhà chuyên môn và quản lý hơn là con cái của nông dân, chủ cửa hàng nhỏ hay của công nhân nhà máy. Cái phân biệt Mỹ đã không phải là lượng lưu động lên phía trên mà, tương phản sắc nét đối với hầu hết các nước châu Âu, là cách nó được hoan nghênh, khích lệ và yêu mến.
Xã hội tri thức đưa sự chấp thuận tính lưu động lên này xa hơn nhiều: nó coi mọi cản trở đối với tính lưu động như vậy là một dạng phân biệt đối xử. Điều này ngụ ý rằng bây giờ mọi người được kỳ vọng trở thành một người “thành công” – một ý tưởng từng có vẻ là lố bịch đối với các thế hệ trước. Cố nhiên, chỉ một số nhỏ người có thể là người thành công xuất sắc, nổi trội; nhưng một số rất đông được kỳ vọng trở thành người thành công thỏa đáng.
Năm 1958 John Kenneth Galbraith lần đầu tiên viết về “Xã hội Phong lưu”. Đây không phải là một xã hội với nhiều người giàu hơn, hay trong đó người giàu trở nên giàu có hơn, mà là một xã hội trong đó đa số có thể cảm thấy an toàn về mặt tài chính. Trong xã hội tri thức, một số đông người, có lẽ thậm chí đa số, có cái gì đó thậm chí còn quan trọng hơn sự an toàn tài chính: địa vị xã hội, hay “phong lưu xã hội”.
Cái giá của sự thành công
Tính lưu động hướng lên của xã hội tri thức, tuy vậy, đến với một cái giá cao: những áp lực tâm lý và tổn thương xúc cảm của cuộc chạy đua quyết liệt. Có thể có những người thắng chỉ nếu có những kẻ thua. Điều này đã không đúng đối với các xã hội trước. Con trai của người làm công không có đất đai bản thân trở thành người làm công không có đất đai đã không phải là một thất bại. Trong xã hội tri thức, tuy vậy, anh ta không chỉ là thất bại cá nhân mà cũng là một thất bại của hệ thống nữa.
Bọn trẻ Nhật bị mất ngủ bởi vì chúng dùng hết các buổi tối của chúng với một người luyện thi để giúp chúng qua các kỳ thi của mình. Khác đi thì chúng sẽ không vào được trường đại học danh tiếng theo lựa chọn của chúng, và như thế không kiếm được việc làm tốt. Những áp lực này gây ra sự thù địch đối với học tập. Chúng cũng đe dọa làm xói mòn tính bình đẳng kinh tế được quý trọng của Nhật Bản và biến đất nước này thành một chế độ tài phiệt, bởi vì chỉ các cha mẹ sung túc mới có khả năng trả chi phí cao không thể chịu nổi để chuẩn bị cho con em họ vào đại học. Ở các nước khác, như Mỹ, Anh và Pháp, cũng cho phép các trường học trở nên cạnh tranh khốc liệt. Rằng điều này đã xảy ra trong thời gian ngắn như vậy—không hơn 30 hay 40 năm—cho thấy sự sợ hãi về thất bại đã thấm vào xã hội tri thức nhiều đến thế nào.
Căn cứ vào cuộc đua tranh này, một số ngày càng tăng những người lao động tri thức rất thành công thuộc cả hai giới—các nhà quản lý kinh doanh, giáo viên đại học, giám đốc bảo tàng, bác sĩ—“bình ổn” ở độ tuổi 40. Họ biết họ đã đạt mọi thứ họ sẽ đạt. Nếu công việc của họ là tất cả cái họ có, thì họ gặp rắc rối. Vì thế những người lao động tri thức cần phát triển, tốt nhất khi họ còn trẻ, một cuộc sống phi-cạnh tranh và cộng đồng của chính họ, và một số mối quan tâm bên ngoài nghiêm túc—dù là làm việc với tư cách một tình nguyện viên trong cộng đồng, chơi trong một dàn nhạc địa phương hay tham gia tích cực vào chính quyền địa phương của một thị trấn nhỏ. Mối quan tâm bên ngoài này sẽ mang lại cho họ cơ hội đóng góp và thành tựu cá nhân.
Nguyễn Quang A dịch
Nguồn:The Next Society
by PETER F. DRUCKER
The Economist Magazin, 2001, NYK
www.csupomona.edu/~sciman/classes/324/organizer/goodReport.pdf
theo: http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4214-xa-hoi-tiep-theo-ky-3.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.