DỰ TRẦN
TTCT - Nhiều ý kiến có thể cho câu chuyện về mại dâm,
đặc biệt là mại dâm trong giới người mẫu, diễn viên, hoa hậu là chủ đề
của báo lá cải hoặc đơn giản là một vấn đề xã hội nan giải gây thách
thức cho cả những chính phủ cởi mở nhất.
Nhưng đã có những nghiên cứu rất nghiêm túc về vấn đề này dưới góc độ kinh tế, với nhiều kết luận đáng lưu tâm.
Minh họa: DAD |
Nữ giáo sư Lena Edlund (Đại học Columbia) và Evelyn
Korn (Đại học Eberhard Karls, Tübingen) có lẽ là những nhà kinh tế đầu
tiên nghiên cứu về mại dâm. Công trình của hai bà “Một lý thuyết về mại
dâm” được đăng tải trên tạp chí nghiên cứu kinh tế danh giá nhất của thế
giới Journal of Political Economy năm 2002.
Theo cách giải thích của hai bà: “Mại dâm là một ngành
công nghiệp nhiều tỉ USD và là công việc thường xuyên của hàng triệu phụ
nữ khắp nơi trên thế giới. Một khảo cứu gần đây của Văn phòng Lao động
quốc tế cho thấy ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan có tới
0,25-1,5% phụ nữ tham gia hoạt động mại dâm và nghề này đóng góp từ
2-14% tổng thu nhập nội địa (GDP)”.
Còn theo cách nói của nhà kinh tế học danh tiếng Steven
D. Levitt - đồng tác giả của hai cuốn sách Freakonomics, hai cuốn sách
thuộc nhóm bán chạy nhất thế giới - trong công trình nghiên cứu mang tên
“Nghiên cứu định lượng về gái bán dâm đường phố” thì “không giống như
phần lớn các loại tội phạm khác, mại dâm dựa trên thị trường và vì thế
nó thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu kinh tế”.
Nghịch lý thu nhập
Một trong những vấn đề lớn nhất mà kinh tế học tìm cách
giải thích là nghịch lý thu nhập. Theo rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm
được tiến hành khắp nơi trên thế giới, mức thu nhập trung bình của
người làm nghề mại dâm cao hơn nhiều so với các ngành nghề đòi hỏi trình
độ kỹ thuật và mức độ học vấn cao hơn.
Theo báo The Economist (1998), một số phụ nữ làm nghề
mại dâm ở khối Ả Rập có thể kiếm được 2.000 USD/đêm. Còn theo một nghiên
cứu của Parera (1995), gái mại dâm cấp thấp ở Barcelona (Tây Ban Nha)
năm 1995 có thu nhập 300-2.000 USD/ngày tùy số lần phục vụ, trong khi
GDP/đầu người của Tây Ban Nha trong cùng năm khoảng 18.800 USD.
Theo Edlund và Korn (2002), về mặt lý thuyết, nghịch lý
thu nhập tồn tại vì những người tham gia thị trường mại dâm phải đánh
đổi khả năng lập gia đình và cuộc sống bình thường. Khách mua dâm đến
với người bán dâm vì mục đích vui vẻ chứ không phải hôn nhân và con cái,
và khi làm nghề này rồi thì người bán dâm hầu như không còn cơ hội được
lập gia đình.
Một công trình khác của ba nữ giáo sư Guista, Tommaso
và Strøm (2004) mang tên “Một lý thuyết khác về mại dâm” cũng đưa ra một
cách giải thích tương tự. Theo ba bà, khi mua - bán dâm, cả người mua
và người bán đều chịu tổn hại về uy tín xã hội. Vì sự tổn hại về uy tín
này, người bán dâm cần phải nhận được thu nhập cao thì mới tham gia làm
nghề.
Còn theo một nghiên cứu thực nghiệm của Levitt và
Venkatesh (2008) ở Chicago, thu nhập cho mỗi giờ làm việc của gái mại
dâm đường phố ở Chicago năm 2007 là 27 USD, gấp khoảng bốn lần mức thu
nhập theo giờ mà những phụ nữ này nhận được nếu làm các ngành nghề khác
(trung bình 7 USD/giờ). Tuy nhiên, để đánh đổi lấy mức thu nhập cao hơn
khoảng gấp bốn lần, những phụ nữ này phải chịu đựng một rủi ro rất lớn
về an toàn.
Levitt và Venkatesh ước tính trung bình mỗi năm mỗi cô
gái làm nghề mại dâm đường phố ở Chicago bị đánh đập khoảng một vài chục
lần và phải thực hiện khoảng 300 dịch vụ mại dâm không an toàn.
Sẽ không biến mất
Edlund và Korn (2002) còn chứng minh được rằng xã hội
sẽ luôn luôn có một số phụ nữ làm nghề mại dâm. Lý do là càng ít người
làm nghề này thì do luật cung cầu, thu nhập từ mại dâm sẽ càng cao và
chắc chắn sẽ hấp dẫn với một số người. Edlund và Korn (2002) cũng chứng
minh được rằng khi mặt bằng thu nhập của những phụ nữ không làm nghề mại
dâm tăng lên thì số người làm nghề mại dâm sẽ giảm, mặc dù không bao
giờ biến mất hoàn toàn.
Guista, Tommaso và Strøm (2004) cũng chứng minh được
rằng chênh lệch giàu nghèo trong xã hội càng lớn thì tình trạng mại dâm
càng nhiều, và khi các cơ hội kiếm sống ngoài mại dâm càng tốt thì hoạt
động mại dâm càng giảm. Kết quả này ít nhiều cũng giống với kết quả của
Edlund và Korn và khớp đúng với thực tế là ở các nước đang phát triển và
những nước có bất bình đẳng cao thường có hoạt động mại dâm sôi động
hơn. Nói cách khác, mại dâm sẽ không biến mất nhưng giảm dần với trình
độ phát triển kinh tế và công bằng xã hội.
Ngoài ra Guista, Tommaso và Strøm (2004) còn chỉ ra một
khía cạnh khác của phát triển. Đó là xã hội phát triển thường kéo theo
tự do tình dục và việc này sẽ khiến thị trường mại dâm bị thu hẹp. Điều
này đúng với thực tế ở Mỹ hồi giữa thế kỷ 20 khi thị trường mại dâm đột
ngột bị đánh quỵ vĩnh viễn không thể phục hồi được.
Lý do của sự suy thoái đột ngột này không phải vì nhà
chức trách hay bất cứ lý do gì khác, mà là vì cuộc cách mạng tình dục.
Cuộc cách mạng này đã khiến những phụ nữ hành nghề mại dâm phải đối mặt
với một đối thủ kinh khủng hơn nhà chức trách nhiều lần - đó là những
phụ nữ trẻ trung xinh đẹp sẵn sàng cung cấp tình dục miễn phí mà không
cần đổi chác gì cả.
Mại dâm đi kèm với di trú và môi giới
Các
công trình của Edlund và Korn (2002) và Guista, Tommaso và Strøm (2004)
đều dẫn tới kết luận là khi một xã hội mất cân đối về tỉ lệ nam - nữ
theo hướng nhiều nam và ít nữ thì tình trạng mại dâm chắc chắn sẽ cao.
Lý do tương đối dễ hiểu là sẽ có nhiều đàn ông không lấy được vợ và vì
thế phải tìm đến mại dâm như một kênh thay thế. Khi số lượng những người
đàn ông này càng nhiều thì giá cả của dịch vụ mại dâm sẽ càng cao và
như thế càng thu hút được nhiều phụ nữ tham gia
|
Guista,
Tommaso và Strøm (2004) cũng chứng minh được rằng về mặt lý thuyết, tổn
hại uy tín do việc bán và mua dâm càng lớn thì hoạt động mại dâm càng
ít. Ngược lại khi hoạt động mại dâm ít ảnh hưởng tới uy tín của người
tham gia thì hoạt động này càng sôi động và giá cả càng rẻ. Edlund và
Korn (2002) cũng kết luận rằng nếu khả năng lập gia đình của người hành
nghề bán dâm tăng lên thì số người tham gia bán dâm sẽ tăng lên theo.
Điều này có một ẩn ý quan trọng đối với vấn đề di trú.
Người bán dâm thường tìm cách hành nghề ở xa quê hương của mình, nơi họ
hi vọng sẽ quay về một ngày nào đó và lập gia đình. Khoảng cách về địa
lý tạo ra cảm giác an toàn rằng những việc họ làm sẽ ít khi bị biết tới
và vì thế uy tín xã hội (theo cách nói của Guista, Tommaso và Strøm -
2004) hoặc khả năng có thể lập gia đình (theo cách nói của Edlund và
Korn - 2002) không giảm nhiều.
Các nghiên cứu thực nghiệm đều khẳng định kết luận này.
Thí dụ nghiên cứu của Thorbeke và Pattanaik (2002) và Corso và Trifirò
(2003) chỉ ra rằng hiện tượng di trú làm mại dâm tạm thời ở nước khác,
sau đó quay về quê hương để lập gia đình đang phát triển ngày càng
nhiều, đặc biệt là ở Đông Âu và Liên Xô cũ.
Mại dâm ở Việt Nam
Vào tháng 2-2012, Chương trình chung về bình đẳng giới
(do Chính phủ Việt Nam và Liên Hiệp Quốc đồng thực hiện) xuất bản một
báo cáo đặc biệt thú vị có tựa đề “Mại dâm và di biến động nhìn từ góc
độ giới”. Các kết luận mà nghiên cứu này dẫn ra vẫn có nhiều điểm đáng
quan tâm đặc biệt:
Thứ nhất, về độ tuổi bắt đầu tham gia hoạt động mại
dâm, báo cáo này cho rằng có tới 21,6% người làm nghề mại dâm bắt đầu
tham gia thị trường này từ tuổi 18 trở xuống. Cần nhớ rằng theo cách
tính tuổi của nhiều người Việt Nam thì 18 tuổi đôi khi chỉ là 16 tuổi
theo cách tính tuổi của phương Tây. Vì thế, có vẻ như số lượng những
trường hợp có thể truy tố hình sự theo báo cáo này là rất lớn, nhưng con
số bị truy tố thực tế hầu như chỉ có một vài trường hợp mỗi năm.
Thứ hai, độ tuổi trung bình của người bán dâm là rất
trẻ, nhiều người có nghề nghiệp khác và trình độ học vấn cao. Có tới
52,7% số người trong mẫu điều tra có độ tuổi từ 25 trở xuống. Có tới
49,5% số người làm nghề này đồng thời cũng có những công việc bình
thường khác trong xã hội và trình độ học vấn trung bình là 17,1% chỉ tốt
nghiệp tiểu học, 39,3% đã tốt nghiệp trung học và khoảng 10,3% đã tốt
nghiệp đại học hoặc cao đẳng.
Thứ ba, về mặt thu nhập, thu nhập trung bình từ hoạt
động mại dâm là 8,6 triệu đồng/tháng, cao hơn khoảng bốn lần so với thu
nhập trung bình của dân cư đô thị ở Việt Nam (2,13 triệu) - trong đó đối
với nữ là 10,6 triệu và nam là 6,55 triệu. Đặc biệt có khoảng 5% số
người trả lời có thu nhập từ hoạt động mại dâm từ 20 triệu đồng trở lên.
Kết quả này cũng tương đồng với các kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác
khắp nơi trên thế giới.
Thứ tư, về mặt cấu trúc thị trường, báo cáo này cho
thấy chủ yếu người làm mại dâm ở Việt Nam hoạt động một cách độc lập mà
không cần dịch vụ môi giới. Tính trung bình khoảng 66% số người trong
mẫu điều tra này có hoạt động độc lập, trong đó tỉ lệ hoạt động độc lập
của nam cao hơn của nữ.
Nếu kết quả mà Levitt và Venkatesh (2008) tìm thấy ở
Chicago cũng giống như ở Việt Nam - tức là mại dâm có môi giới đem lại
thu nhập cao hơn cho người bán dâm - thì tại sao lại ít người ở Việt Nam
lựa chọn việc bán dâm qua môi giới?
Điều này có thể hiểu đơn giản vì pháp luật Việt Nam
trừng phạt người môi giới rất nặng, trong khi nhẹ tay với người bán dâm
và người mua dâm. Trong khi người mua dâm chỉ bị phạt hành chính, người
bán dâm cũng chỉ bị phạt hành chính hoặc cùng lắm đi cải tạo một thời
gian rất ngắn thì người môi giới phải lĩnh án hình sự và bị tù nhiều
năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.