Bùi Ngọc Hoàn
Associate professor, Đại học Tennessee, Knoxville
1. Sơ lược về xã hội học
Xã hội học là một khoa học nghiên cứu về xã hội bằng cách điều tra thực nghiệm (empirical investigations) và phân tích có tính thẩm định (critical analysis) để
mở mang sự
hiểu biết về
những hoạt động liên quan đến con người trong xã hội.1 Mục đích của xã hội
học
là nhằm đi tới một sự hiểu biết toàn diện các
hiện
tượng xã hội phức tạp qua nghiên cứu và dùng các kết quả
nghiên cứu để áp dụng vào
chính sách công (public
policy) và an sinh xã hội (social welfare), hay
để hoàn chỉnh sự hiểu biết mang tính lý thuyết về sự vận hành của xã hội (social process).
Từ “xã hội học” đưọc
nhà
viết tiểu luận người
Pháp
Emmanuel
Joseph Sieyès (1748–1836) nghĩ ra và sử dụng lần đầu tiên vào năm
1780.2 Sau đó, Auguste Comte (1798–1857), một triết gia về khoa học và là người sáng lập ra ngành khoa học xã hội (social science), cũng
dùng từ xã hội học để thảo luận về một cái nhìn mới về xã hội theo thuyết thực chứng (positivism) trong tác phẩm tựa đề “the Course
of Positive Philosophy.”3
Tác phẩm này gồm các bài viết được xuất bản trong khoảng từ 1830 đến 1842 trong đó
Comte tiên đoán việc xuất hiện của khoa học xã hội (social science) và cho rằng các phương pháp nghiên cứu dùng trong khoa học tự nhiên cũng có thể áp dụng cho việc nghiên cứu và giải quyết các tệ nạn xã hội (social ills).
Emile Durkheim (1858-
1917) đã đưa
môn
xã hội học thành một ngành hàn
lâm chính thức (formal academic sociology), mở ra khoa xã hội học đầu tiên ở Âu Châu tại Đại học Bordeaux (Pháp) năm 1895 đồng thời xuất bản cuốn Qui Tắc
1. Ashley, D. & Orenstein, D. M. (2005). Sociological Theory: Classical
Statements (6th Ed.). Boston, MA: Pearson Education.
3. Macionis, Gerber, John, Linda (2010). Sociology (7th Ed.).
Toronto,
Ontario: Pearson (p. 10).
Trong Phương pháp Xã Hội Học (The Rules of Sociological Method).4
Durkheim đã gạn lọc các ý
tưởng của Auguste Comte và coi thuyết thực chứng (positivism) như một nền
tảng của nghiên cứu xã
hội ứng dụng (practical social research).
Khoa xã hội học đã nhanh chóng phát triển
trong quá trình tìm hiểu xã hội ở các thời kỳ có những sự thay đổi lớn lao, như các hiện tượng liên hệ đến hiện đại hóa (modernity), kỹ nghệ hoá, đô thị hoá, và thế tục hoá. Nghiên cứu đã mang lại phần lớn sự hiểu biết về khoa xã hội học và đã có các đóng góp quan trọng cho sự phát triển xã hội, trong đó có giáo dục, y tế, kinh tế, chính trị, dân chủ và nhân quyền. Do sự quan trọng của nghiên cứu trong việc khám phá ra
các kiến thức giúp cho sự hiểu biết về xã hội, bài viết này trình bày các điểm chính yếu liên quan đến phương pháp nghiên cứu xã hội học.
2. Nền tảng (Foundation) của nghiên cứu xã hội học
2.1. Thuyết thực chứng (Positivism) và Thuyết thực nghiệm
(Empiricism)
Khi Auguste Comte nghĩ ra và đưa vào sử dụng từ “xã hội học”vào năm 1822, ông đã khởi đầu một cuộc phiêu lưu đi tìm tri thức mà ngày nay người ta vẫn còn tiếp tục.
Điều quan trọng nhất là việc Comte xác định có
thể
nghiên cứu hiện tượng xã hội một cách khoa học. Comte cho rằng thuyết thực chứng (positivism) là một chủ thuyết đúng đắn trong việc xây dựng kiến thức, và thay vì theo thần học (theological) và siêu hình học (metaphysical), Comte nhấn mạnh đến việc giải thích các
hiện tượng xã hội một cách khoa học, và bằng phương pháp khoa học, tức là dựa trên quan sát, phân lọai, sử dụng dữ kiện và thí nghiệm để tìm hiểu mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng thiên nhiên và xã hội.5 Yếu tố cơ bản trong phương pháp luận bao trùm thuyết thực chứng (positivism)
là quan điểm cho rằng việc nghiên cứu xã hội cũng có thể thực hiện giống như nghiên cứu trong
khoa
học tự nhiên. Thuyết
thực nghiệm (empiricism) và phương pháp khoa học được nhấn mạnh như là
một nền tảng được thử nghiệm cho nghiên cứu xã hội dựa trên sự giả định rằng kiến thức đáng tin cậy và xác thực (authentic) là kiến thức dựa trên khoa học, và kiến thức này chỉ có thể được khám phá ra bằng phương pháp luận khoa học. Ngày nay, phương pháp khoa học nhấn mạnh đến việc quan sát, đo lường, nhân rộng với cùng phương pháp lập lại (replication)
và xác minh (verification) để xác nhận kết quả hay
đạt
đươc kết luận với mức độ xác thực cao. Khác với các triết gia thường dựa vào sự hợp lý
4. Durkheim, E. (1982). The Rules of Sociological Method.
New York: Free
Press.
5. What Are the Major Contributions of Auguste Comte to Sociology? http://www.preservearticles.com/201104306124/what-are-the-major-
contributions-of-auguste-comte-to-sociology.html.
(logic) và các lý luận (argumentative reasoning), các nhà khoa học đem các ý
tưởng hay lý thuyết ra thử nghiệm bằng cách quan sát, định lượng
(quantification) và phân tích một cách thực nghiệm (empirical analysis). Việc áp dụng phương pháp khoa học một cách có hệ thống để tìm hiểu các vấn đề quan trọng trong xã hội đã đưa đến các bước đột phá trên con đường mở mang kiến thức.
2.2. Lý thuyết (Theories)
Lý thuyết có ba vai trò trong nghiên cứu. Trước hết, lý thuyết giúp giải đáp câu hỏi “tại sao”liên quan đến các hiện tượng xã hội. Thí dụ, tại sao người ta
phạm tội; tại sao có nhiều tệ
đoan xã hội ở thành thị hơn ở nông thôn; tại sao phụ nữ nói chung thường nghèo hơn nam giới, v.v. Thứ hai, do giải thích được câu hỏi “tại
sao,”lý thuyết đóng góp vào việc xây dựng các chính sách có tính can thiệp để thay đổi tình trạng xã hội. Thí dụ, nếu lý thuyết giải thích tại sao người ta phạm tội thì người ta có thể dựa vào lý thuyết để tìm cách can thiệp làm giảm các yếu tố đưa đến tội phạm một cách có
hiệu quả hơn. Sau cùng, lý thuyết hướng dẫn công trình nghiên cứu bằng cách gợi ý
cho huớng quan sát để có những khám phá mới về kiến thức. Thí dụ, lý thuyết nhấn mạnh đến gia đình và học đường như các yếu tố liên hệ đến thiếu nhi phạm pháp, chỉ ra hướng quan sát các sinh hoạt gia đình và học đường để tìm nguyên nhân của thiếu nhi phạm pháp.
Phần lớn, các lý thuyết về khoa học xã hội nhằm vào việc tìm hiểu các mô hình về qui luật trong cuộc sống xã hội (patterns of regularity).
Đại bộ phận các chuẩn mực chính thức (formal norms) trong xã hội đã tạo ra khá nhiều qui luật (considerable degree of
regularity). Thí dụ, chỉ những người đến một tuổi nào đó mới được đi bầu. Các qui định chính thức (formal prescription) như vậy được dùng để điều khiển các hành vi xã hội (social behavior). Ngoài các qui định chính thức, người ta còn quan sát thấy
có các chuẩn mực xã hội không chính thức (informal social norms) cũng tạo ra
thêm
những qui luật xã hội không chính thức. Thí dụ, những người có học vấn chuyên môn cao thường kiếm nhiều tiền hơn những người lao động tay chân; các tội trộm cắp vặt thường xảy ra ở những khu vực nghèo khổ.
Mục đích của lý thuyết khoa học xã hội (sociological theories) là để tìm hiểu các mô hình mang tính xã hội (social patterns), chứ không phải các trường hợp cá thể (hay
cá
nhân), và lý thuyết nói về bản chất (nature) của số đông thay vì cuộc sống hay kinh nghiệm của từng cá nhân. Do đó, tất cả các mô hình về qui luật xã hội liên quan đến
hành động tập thể hay của nhiều cá nhân (collective or aggregate actions). Có thể nói rằng các nhà nghiên cứu xã hội không tìm
hiểu
từng cá nhân, mà tìm hiểu hệ thống xã hội do con người vận hành (operate), và sự hiểu biết các hệ thống xã hội giúp giải thích hành động của tập thể con nguời.
Một nguyên tắc trong khoa học, kể cả khoa học xã hội, là
tính phi giá trị (value-free). Các lý thuyết xã hội học (sociological theories) có mục đích đáp câu hỏi “đó là gì”(what is) và “tại sao”(why),
chứ không phải “đó phải là gì”(what should be). Bởi vì con nguời thường không đồng ý với nhau về các tiêu chuẩn giá trị
cho
nên khoa học không được dùng để giải quyết các tranh cãi về giá trị.
Thí dụ,
lý thuyết khoa học không dùng để giải quyết các tranh luận về tôn giáo nào tốt hơn, trừ khi người ta đồng ý với nhau về định nghĩa thế nào là một tôn giáo tốt.
Ngoài ra, các qui luật xã hội thể hiện tính xác suất (nhiều phần xảy
ra –probability) của
các hiện tượng xã hội, chứ không nhất thiết là các hiện tượng này chắc chắn phải xảy ra.
2.3. Mối tương quan giữa lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên quan đến việc thu thập các dữ kiện một cách chính xác về các hiện tượng xã hội, tức là giúp trả lời câu hỏi “hiện tượng đó là gì”(what is).
Trong nghiên cứu xã hội học, phương pháp nghiên cứu có liên hệ chặt chẽ không thể tách rời với lý thuyết. Thí dụ, người ta làm một cuộc điều tra để tìm hiểu tội phạm, nhưng những thống kê cho thấy tội phạm thay
đổi theo không gian hay thời gian có thể trả lời câu hỏi “tội phạm gì,” nhưng không giúp cho sự hiểu biết tại sao tội phạm xảy ra, và tại sao có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Chỉ có lý thuyết mới có thể đưa ra các giải thích hợp lý để trả lời các câu hỏi trên.
Nói chung, lý thuyết có thể giải thích nguyên nhân của các hiện tượng thực tế, phỏng đoán chiều hướng của hiện tượng trong tương lai, và giải thích hiện tượng xảy
ra
như thế nào. Nếu không có sự gỉải thích một cách khái quát bằng các lý thuyết, ngành xã hội học sẽ hoàn toàn bị phá sản về trí tuệ (intellectually bankrupt). Thí dụ, các con số thống kê về tội phạm, hay các bài tường thuật về tội phạm đã xảy ra sẽ chỉ là một sự tập hợp các câu chuyện về tội ác, hay một đống các con số về các hành vi phạm tội nhưng không thể giải thích, tóm tắt, hay nắm bắt được bản chất của tội phạm, tại sao nó lại xảy ra, và nó xảy ra như thế nào.
Nhà
xã hội học C. Wright Mills dùng khái niệm duy nghiệm trừu
tượng “abstracted
empiricism” (khuynh hướng quá chú ý đến phương pháp thực nghiệm mà quên đi việc tìm hiểu ý nghĩa) để chỉ trường hợp khi người ta
đặt nặng phương pháp thu thập dữ liệu, mà không chú ý đến các lý thuyết dùng để giải thích dữ liệu thu thập được.6 Tuy nhiên, nếu lý thuyết xã hội chỉ giải thích mà không được sự hỗ trợ
bằng dữ kiện thì lý thuyết xã hội chỉ là nghi thức dẫn vào ngõ cụt (ritualistic dead end) cũng chẳng khác với trường hợp quá chú trọng đến phương pháp nghiên cứu
6. Mills, W. C. (1959). The Sociological Imagination. New York: Oxford
University Press.
mà không đi kèm theo lý
thuyết. Do đó, cả
hai lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu phải được coi là
các
phương tiện cần thiết để đi đến cùng một mục đích là hiểu biết xã hội và các hiện tượng thực tế.
3. Các hệ qui chiếu quan điểm trong nghiên cứu xã hội
(Social research paradigms)
Các nhà xã hội học đã sử dụng nhiều cách khác nhau để tìm hiểu các sự kiện thực tế hay hiện tượng xã hội. Thomas Kuhn (1970) gọi nhãn quan trong khoa học (point of
view in sciences) là hệ qui chiếu về quan điểm (paradigm), một cách để
nhìn vào đời sống xã hội của con người và hướng dẫn các nhà nghiên cứu quan sát các hiện tượng xã hội và phân tích dữ kiện trong quá trình nghiên cứu.7 Sau đây là một số các hệ qui chiếu quan điểm thường được sử dụng trong việc tìm hiểu hành vi xã hội.
3.1. Lý thuyết vĩ
mô (Macro theory)
và Lý thuyết vi
mô
(Micro theory)
Lý thuyết vĩ mô chú ý đến các hiện tượng thuộc về chính phủ, tôn giáo, định chế gia đình (family institution), các tập thể lớn, và có khi là toàn thể xã hội. Các đề tài của lý
thuyết vĩ mô gồm có sự đấu tranh giữa các giai cấp kinh tế, bang giao quốc tế, hay
sự
liên hệ giữa các định chế (institutions) trong xã hội. Lý thuyết vi mô nhằm giải thích các vấn đề liên hệ đến cá nhân, hay các nhóm nhỏ. Thí dụ, hành vi hò hẹn, bồi thẩm đoàn bàn luận để kết tội, quan hệ giữa giáo sư và sinh viên, hay quan hệ trong gia đình là các đề tài của lý thuyết vi mô.
3.2 Hệ qui chiếu xung đột (Conflict paradigm)
Đây là một quan điểm cấp tiến về sự tiến hoá của giai cấp tư sản. Nền tảng của hệ
qui chiếu xung đột dựa trên quan điểm của Karl Marx (1818-1883) vốn cho rằng hành vi xã hội là một chuỗi diễn biến từ các xung đột nảy sinh do bị thống trị và những cố gắng để thoát khỏi thống trị. Marx đặc biệt chú ý đến sự đấu tranh giữa các giai cấp kinh tế và giải thích tại sao chế độ tư
bản
đưa đến việc giới chủ nhân áp bức giới công nhân. Dựa vào quan điểm xung đột của Marx, Chamblis và Seidman
(1982) và Quinney (1970) phân tích và giải thích quá trình làm ra luật pháp và sự liên hệ giữa quyền lực, giai cấp xã hội, tội phạm, và
hình phạt.8-9
7. Kuhn, T. (1970). The Structure of Scientific Revolutions.
Chicago: University of Chicago Press.
8. Chambliss, W. & Seidman, R. (1982). Law, Order and Power. Reading,
MA: Addison-Wesley.
Hệ qui chiếu nghiên cứu dựa trên xung đột không chỉ giới hạn trong
việc phân tích quan hệ kinh tế.
Georg Simmel (1858-1918) đặc biệt chú ý đến các xung đột trong các nhóm nhỏ không mang tính chất kinh tế. Thí dụ, Simmel so sánh xung đột giữa các thành viên trong một nhóm có liên
hệ chặt chẽ và xung đột trong các nhóm không có sự liên hệ chặt chẽ. 10
3.3. Trường phái biểu tượng tương
tác (Symbolic interactionism)
Nghiên cứu của Simmel về sự tương tác (interact) giữa các cá nhân trong các nhóm nhỏ có
ảnh
hưởng đặc biệt đến George Herbert Mead (1863-1931) và Charles Horton Cooley (1864-1929). Cooley đã đưa ra ý tưởng về “nhóm chủ yếu”(primary
group) và mối liên hệ mật thiết giữa những nguời trong nhóm này.11 Ông cũng viết về hiện tượng nhìn vào phản ứng
của người chung quanh như nhìn vào gương để biết về mình (looking-glass
self).12 Mead nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khả năng con nguời đứng vào địa vị và vai trò của người khác để hiểu họ nghĩ gì và hành động ra sao trong một số trường hơp. Mead đặc biệt chú ý đến vai trò của sự truyền đạt giữa người với người, và nhận thấy rằng các sự tương tác giữa cá nhân xoay quanh việc đạt được sự hiểu biết chung thông qua ngôn ngữ và các biểu tượng (symbols), do đó mà có từ biểu tượng tương tác (symbolic interactionism). Các nhà xã hội học đã dựa trên môn phái biểu tượng tương tác để giải thích hiện tượng tái
phạm tội. Thí dụ, Howard Becker (1963) cho rằng phản ứng của xã hội đối với những người bị kết án do phạm tội, coi họ như những kẻ đứng ngoài lề xã hội là các cản trở cho việc những người này cố gắng trở thành người lương thiện.13
9. Quinney, R. (1970). The Social Reality of Crime. Boston, MA: Little, Brown
10. Simmel, G. (2008). Georg Simmel. Sociological Theory (7th Ed). New
York: McGraw–Hill.
11. Cooley, C. (1909). Social Organization: A Study of a Larger Mind. http://www.brocku.ca/MeadProject/Cooley/Cooley_1909/Cooley_1909_toc.
html
12. Cooley, C. (1902). Human Nature and the Social Order. http://www.brocku.ca/MeadProject/Cooley/Cooley_1902/Cooley_1902toc.h tml
13. Becker, Howard (1963). Outsiders: Studies in the Sociology of Deviance.
New York: Free Press.
3.4. Trường phái cấu trúc và chức năng xã hội (Structural
functionalism)
Quan điểm cấu trúc và chức năng xã hội có liên hệ
chặt
chẽ với lý thuyết hệ thống xã hội (social system theory) vốn được phát triển từ ý niệm (notions) của Herbert Spencer và Talcott Parsons (1951) cho rằng xã hội là một tổ
chức được tạo thành bởi nhiều bộ phận, và mỗi bộ phận đóng góp vào sự vận hành chung của cả tổ chức.14-15 Dựa vào quan điểm cấu trúc và chức năng xã hội, Durkheim cho rằng
tội phạm và hình phạt có chức năng tạo điều kiện để khẳng định các giá trị của xã hội, bởi vì qua việc bắt và trừng phạt một kẻ ăn trộm, xã hội khẳng định việc tôn trọng quyền tư hữu cá nhân.16
3.5. Hệ qui chiếu nữ quyền (Feminist paradigm)
Chủ nghĩa nữ quyền (feminism) đã làm nền tảng cho một hệ qui chiếu quan trọng trong nghiên cứu khoa học.
Hệ qui chiếu này
chú
trọng
đến quan niệm cho rằng có sự khác biệt về giới (gender differences) và ảnh huởng của quan niệm này đến tổ chức xã hội. Hệ qui chiếu nữ quyền quan tâm đến sự áp bức phụ nữ trong nhiều xã hội để làm sáng tỏ sự áp bức phụ nữ nói chung.
Hệ qui chiếu này cho rằng đàn ông và đàn bà có những nhận định về thực tế khác nhau bởi vì họ có những kinh nghiệm khác nhau trong đời sống. Do đó, các kết luận về đời sống xã hội của đàn ông và đàn bà cũng khác nhau. Nói chung là mô thức nữ quyền đã thách thức các khái niệm từng được công nhận trong xã hội bởi vì sự mô tả các niềm tin, giá
trị, và chuẩn mực xã hội quan trọng nhất thuờng được viết ra bởi nam giơí, tức là những người chỉ đại diện cho một phần của xã hội. Thí dụ, ở nước Mỹ, những phân tích xã hội trước đây thường được viết bởi phái nam thuộc giới trung lưu, và dĩ nhiên là họ viết về những niềm tin, giá trị hay
chuẩn mực xã hội mà họ nhận thức được theo kinh nghiệm của họ. Các học giả thuộc môn phái nữ quyền giải thích hiện tượng bạo hành trong gia đình bằng
cách
nhấn mạnh đến mối tương
quan bất bình đẳng nam nữ trong các xã hội như là nguyên nhân chính.17
14. Urry, J. (2000). Sociology beyond Societies: Mobilities for the Twenty-First
Century. New York: Routledge.
15. Parsons, T. (1951). The Social System. Glencoe, IL: Free Press.
16. Durkheim, E. (1964). The Division of Labor in Society. New York: Free
Press.
17. Dobash, R. E. & Dobash, R. (1979). Violence against Wives: A Case against the Patriarchy. New York: Free Press.
3. 5. Thuyết hậu hiện đại (Postmodernism)
Quan điểm hậu hiện đại chưa được phổ biến rộng rãi trong xã hội học nhưng ảnh hưởng của nó đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Theo như
tên gọi, quan điểm hậu hiện
đại
chống lại quan điểm hiện đại (modernism) vốn được phát sinh từ phong trào Khai sáng
(Enlightenment) với sự chú trọng vào khoa học và phương pháp nghiên cứu khoa học như là một cách duy nhất để khám phá ra một loại kiến thức chung cho cả nhân loại. Quan điểm hậu hiện đại
nhấn mạnh đến tính tương đối của kiến thức, công nhận sự khác biệt về kiến thức xã hội bởi vì kiến thức được khám phá ra trong trong những hoàn cảnh lịch sử và văn hoá khác nhau, và chú trọng đến các quan điểm liên quan đến giai cấp, giới, hay chủng tộc đối với các vấn đề xã hội. Tác phẩm Tội Phạm và Hình Phạt (Crime and Punishment) của Michel Foucault là một thí dụ về quan điểm hậu hiện đại, trong đó Foucault chỉ trích cơ chế xã
hội
xây dựng trên nền tảng hiện đại đã tạo ra tội phạm và đưa đẩy con người đi
đến chỗ phạm pháp bằng cơ chế kiểm soát xã hội toàn khắp.18
4. Đạo đức trong nghiên cứu xã hội (Research ethics)
Đạo đức là một nguyên tắc quan trọng trong nghiên cứu khoa học nói chung và được chú ý trong khoảng vài chục năm gần đây để bảo đảm công bằng xã hội cũng như phẩm chất nghiên cứu và các kiến thức do nghiên cứu mang lại.
Những hiện tượng vi phạm nhân quyền trầm
trọng nhân danh nghiên cứu khoa học rất phổ biến trước đây
và
những gian lận trong phương pháp nghiên cứu (gian lận dữ liệu và phân tích) đã thúc đẩy việc đặt ra các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu. Thí dụ, trong
thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai, các bác sĩ thuộc Đức Quốc Xã đã sử dụng các tù binh để làm thí nghiệm y khoa; ở những nước khác, tù nhân bị sử dụng một cách bí
mật để làm thí nghiệm mà họ không hề hay biết; các cơ quan tình báo ở các nước kém phát triển đã từng sử dụng các nhà nghiên cứu xã hội để thâu thập tin tức về những người bất đồng chính kiến. Có nhiều cuộc nghiên cứu khoa học tuy không gây tác hại đến sức khỏe, sinh mạng hay an ninh của những người tham gia, nhưng vi
phạm
vào những nguyên tắc bảo vệ đời tư (protection of privacy).
Vì vậy, thiết tưởng cũng nên bàn qua về vấn đề đạo đức trong nghiên cứu trước khi nói về phương pháp nghiên cứu xã hội học.
Các nước có các phương pháp khác nhau để thực hiện nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu. Tại Hoa Kỳ, một đạo
luật về nghiên cứu (the National Research Act of 1974) đặt nền móng cho các qui tắc đạo đức cần phải được tôn trọng trong nghiên cứu khoa học. Cơ quan bảo
vệ
sức
khoẻ và phục vụ con người (Health
and Human
Services)
được giao
18. Foucault, M. (1995). Discipline and Punish: The Birth of the Prison. New
York: Vintage Books.
trách nhiệm đặt ra những nguyên tắc hướng dẫn
việc bảo vệ những người tham gia nghiên cứu.19 Những nguyên tắc này
được Hội đồng Thẩm tra (Institutional Review Board) triển khai và
thi hành, nhằm bảo đảm giá trị đạo đức của các phương pháp nghiên cứu khoa học tại các trường đại học, nơi thực thiện đại bộ phận các nghiên cứu khoa học ở
Hoa
Kỳ. Nói chung, ngoài một số các loại nghiên cứu được miễn trừ như nghiên cứu với mục đích về giáo dục ở trường học, hay các nghiên cứu bằng cách quan sát các hoạt động công cộng (public events), có bốn nguyên tắc đạo đức cơ bản cần có trong phương pháp nghiên cứu xã hội như sau:
4. 1. Không gây hại cho những người tham gia nghiên cứu (No
harm to research subjects).
Một trong các nguyên tắc đạo đức quan trọng nhất trong nghiên cứu xã hội là không mang lại nguy hại gì cho đối tượng được nghiên cứu. Bởi vì nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra kiến thức mới để
phục vụ con người, nhưng sẽ có mâu thuẫn và không công bằng khi việc khám phá kiến thức làm thiệt hại cho một nhóm người để
phục vụ cho các nhóm người khác. Mặc dù nhửng người làm nghiên cứu không cố
ý, họ
vẫn có thể vô tình gây hại cho những người tham gia. Vì vậy, trong lúc soạn
phương pháp nghiên cứu (research methods), những người làm nghiên cứu luôn luôn phải tự hỏi xem phương pháp nghiên cứu của họ có thể gây ra nguy hại cho những người tham gia nghiên cứu hay không, và phải cân nhắc hết sức cẩn thận để không có tai hại xảy ra
trong mọi giai đoạn nghiên cứu, hay ít có tai hại nhất nếu không thể tránh được.
4.2. Tự nguyện tham gia (Voluntary participation)
Đối với nhiều cuộc nghiên cứu thì sự
tham gia của các đối tượng nghiên cứu (research subjects) vào các cuộc thăm dò hay phỏng vấn rất cần thiết để thu thập dữ liệu.
Các đối tượng nghiên cứu phải được giải thích để họ hiểu được mục đích của nghiên cứu trước khi họ quyết định có
tham
gia hay không, như vai trò của họ
trong quá trình nghiên cứu, và những gì có thể xảy
ra với họ khi họ tham gia. Nguyên tắc này liên quan đến việc bảo vệ đời tư cá nhân (protection of privacy).
Vì đối tượng
nghiên cứu sẽ tiết lộ các chi tiết cá nhân khi tham gia thăm dò hay phỏng vấn, do đó họ cần phải được biết rõ để quyết định có
muốn tiết lộ quan điểm hay chi tiết cá nhân hay không.
19. Belmont Report: Ethical Principles and Guidelines for the Protection of Human Subjects of Research. http://videocast.nih.gov/pdf/ohrp_belmont_report.pdf
4.3. Giữ bí mật các tin tức thu thập được từ những người
tham gia (Confidentiality).
Nguyên tắc này có mục đích để bảo vệ sự riêng tư của cá nhân, và đồng thời để ngăn ngừa các trường hợp gây hại cho người tham gia nghiên cứu, không để
cho
các thông tin
do những người tham gia nghiên cứu cung cấp cho người làm nghiên cứu được phổ biến cho ai khác. Thí dụ, những người làm nghiên cứu về bạo hành trong gia đình có thể vô tình để lọt
ra các chi tiết về các vụ bạo hành được những người tham gia nghiên cứu cung cấp
, khiến cho những người khác, kể cả chồng của họ, biết là họ đã mang chuyện gia đình đi kể cho người ngoài, và điều đó có thể khiến cho gia đình của họ bị xào sáo và có thể gây nguy hiểm cho họ.
4.4. Giữ tính khách quan và phẩm chất trung thực chuyên nghiệp trong thực hiện
nghiên cứu và công bố kết quả (Objectivity and professional integrity in
performing and reporting research)
Trung thực, liêm chính (hay chính trực) và khách quan là những tiêu
chuẩn tối cần thiết của
các hành vi có
tính chuyên nghiệp (professional conduct). Những ngươì làm nghiên cứu cần phải giữ tính khách quan và không có thiên kiến về mọi phương diện. Tuy nhiên khách quan là một điều thường không thể thực hiện được một cách tuyệt đối vì việc lựa chọn một đề tài nghiên cứu đã mang tính chủ quan.
Những người làm nghiên cũng phải thẳng thắn và thành thật trong khi thực hiện các giai đoạn trong công tác nghiên cứu và không được trình bày sai lạc kết quả nghiên cứu, như chỉ báo cáo các kết quả xảy ra như mong đợi (hỗ trợ giả thuyết) và dấu đi các kết quả không xảy ra như mong đợi (không hỗ trợ giả thuyết). Họ cũng phải tránh sử dụng những kỹ thuật thống kê (statistical techniques) chỉ với mục đích nhắm vào việc cho ra các kết quả như giả thuyết mong đợi.
Trên đây là bốn nguyên tắc tối thiểu cần giữ trong nghiên cứu. Trong
thực tế, nhiều ngành khoa học xã hội, như xã hội học, tâm lý học và khảo cổ học ở Hoa Kỳ đã đạt được sự tự chủ và tự quản ở mức độ cao trong việc thực hiện đạo đức trong nghiên cứu nên các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu của các ngành này thường vượt xa các nguyên tắc tối thiểu do chính phủ qui định.
(Còn nữa)
Tạp chí Thời đại mới số 25 tháng 7, 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.