LỜI NGƯỜI DỊCH
Quý độc
giả đang lật giở những trang sách tiếng Việt của một trong những tác
phẩm được xem là vĩ đại nhất của nền triết học chính trị và chính trị
học nhân loại, Khảo luận thứ hai về chính quyền, mà tác giả của nó John
Locke (1632‐1704), cũng không kém, là một trong những triết gia vĩ đại
nhất của châu Âu thế kỷ XVII, tác giả của Luận về nhận thức con người
(An Essay Concerning Human Understanding, 1689), Hai khảo luận về
chính quyền (Two Treatises of Government, 1689), Thư bàn về sự khoan
dung (A Letter Concerning Toleration, 1689)[1],
Một số suy nghĩ về giáo dục (Some Thoughts Concerning Education,
1693), Tính hợp lý của Thiên chúa giáo (The Reasonableness of
Christianity, 1695).
Cùng với
Francis Bacon (1561‐1626) với thái độ hoài nghi và phê phán của khoa
học, và René Descartes (1596‐1650) với nhận thức luận Duy lý, Locke
được xem là một trong những cội nguồn tri thức của phong trào Khai
sáng với vai trò của người chủ xướng nhận thức luận Duy nghiệm, với
khẳng định rằng mọi thứ, để tồn tại như cái thực tồn, thì phải kiểm
chứng được và phải được kiểm chứng bằng kinh nghiệm, bằng những trải
nghiệm thực.
Có lẽ sẽ
không sai khi nói rằng tầm mức đó của Locke, ngoài khả năng thiên tư
của con người ông, có phần đóng góp đáng kể của bối cảnh một nước Anh
đang ở vào giai đoạn đầy ắp những sự kiện đi vào sử sách, là những điều
có thể nói đã cuốn xoáy Locke vào đó một cách “không thương tiếc”.
Cho đến
khi Locke chào đời vào ngày 29 tháng Tám năm 1632, châu Âu nói chung và
nước Anh nói riêng đã trải qua những diễn biến thật sự đáng kể về
kinh tế, xã hội, văn hóa…, chuẩn bị cho những thay đổi sâu sắc của
lịch sử, hướng đến việc hình thành các quốc gia‐dân tộc, nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, cách mạng công nghiệp, và chủ nghĩa thực
dân… Văn hóa Phục hưng đạt đến độ cực thịnh ở thế kỷ XVI, rồi phong
trào Cải cách Tôn giáo cũng góp phần vào việc tạo dựng một bộ mặt
chính trị, văn hóa mới cho châu Âu từ nửa sau thế kỷ XVI.
Ở Anh,
cuộc đấu tranh quyền lực xã hội đã vào tận vào trong chính định chế của
nền quân chủ khi các quý tộc mới dần chiếm vị trí của các quý tộc cũ
trong Viện Thứ dân, dẫn đến xung đột ngày một trầm trọng giữa ngôi vua
với nghị viện. Những xung đột giữa người Tin lành, người Anh giáo với
người Công giáo đã đưa nước Anh vào cuộc nội chiến những năm 1640. Với
sự thất bại và cái chết của Charles I, đã bắt đầu một thử nghiệm mới
trong các định chế của nhà nước, gồm việc thủ tiêu vương quyền, xóa bỏ
cơ quan quyền lực của giới quý tộc cha truyền con nối và uy quyền của
Giáo hội Anh, cùng lúc với việc thiết lập nền Bảo hộ của Oliver
Cromwell (1599‐1658) vào những năm 1650. Sự sụp đổ của chế độ Bảo hộ
sau cái chết của Cromwell được nối tiếp bằng thời kỳ Phục hồi của
Charles II, quay trở về nền Quân chủ, Viện Quý tộc và Giáo hội, khiến
tiếp tục có những xung đột giữa quốc vương với nghị viện và những
tranh cãi về sự khoan dung tôn giáo trong thời gian từ 1660 đến 1688.
Thời kỳ này kết thúc bằng cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688 mà James
II bị trục khỏi Anh và vương vị được thay vào bằng William III và vợ
là Mary II[2],
định hình nền Quân chủ Lập hiến. Đây là thời kỳ cuối cùng mà Locke
còn sống trong đó, với vai trò một chứng nhân lịch sử và một tác nhân
dự phần tích cực vào các sự kiện của nó.
Locke
sinh ra trong một gia đình Thanh giáo không nhiều tiền của nhưng nhờ sự
bảo trợ của một nghị sỹ địa phương, vốn là chỉ huy đơn vị kỵ binh mà
cha của Locke phục vụ, ông đã được ăn học chu đáo. Năm 1647, Locke vào
Westminster School tại London. Từ Westminster, ông đến Christ Church
College của Oxford vào mùa thu năm 1652. Thời đó, Westminster là trường
trung học hàng đầu nước Anh, Christ Church là đại học hàng đầu tại
Oxford, vẫn mang nặng tính giáo dục trung cổ vào thời Locke theo học.
Locke
nhận học vị cử nhân vào tháng Hai năm 1656, thạc sỹ văn chương vào Tháng
Sáu năm 1658. Tại Christ Church, sau khi được chọn là giảng viên
tiếng Hy Lạp và giảng viên môn hùng biện, Locke quyết định tiếp tục
theo học ngành y.
Lựa chọn
này đem lại cơ hội cho Locke kết bạn với Bác sỹ David Thomas. Từ quan
hệ bạn bè và công việc này, Locke lại có dịp tiếp xúc với Lord Ashley,
một trong những người giàu có nhất nước Anh và có chân trong chính
quyền nước này. Ashley mời Locke đến London với tư cách không chỉ là
bác sỹ riêng của ông, mà còn là thư ký, người nghiên cứu, người phụ
trách đặc vụ chính trị và là một người bạn. Sống và làm việc cạnh
Ashley, Locke nhận ra mình đang ở trong vùng tâm điểm của nền chính trị
Anh những năm 1670 và 1680. Locke trở thành Thư ký Ủy ban Thương mại
và Thuộc địa của Ashley, và nhanh chóng hòa nhập vào những tư tưởng và
kế hoạch cấp tiến của con người này.
Năm
1674, sau khi Ashley rời khỏi chính quyền, Locke quay lại Oxford hoàn
tất chương trình y khoa và sang Pháp, lưu lại đây trong mười lăm tháng.
Trong thời gian này, năm 1676, Ashley bị tống giam rồi được thả hai
năm sau đó. Vị thế của Lord Shaftesbury, tức Ashley, lại lập tức dâng
cao với cuộc vận động thông qua một dự luật nhằm loại trừ Quốc vương
James II và ngăn chặn hoàng đệ của ông kế vị. Được thông qua tại Viện
Thứ dân nhưng bị chặn lại ở Viện Quý tộc và trước sự chống đối của
Quốc vương, dự luật thất bại, Shaftesbury lại vào tù vào năm 1681,
nhưng trong cùng năm đó được trắng án. Đảng Quê hương của Shaftesbury
quay sang kế hoạch ám sát anh em James II nhưng không thành.
Shaftesbury phải chạy sang Hà Lan vào tháng Mười một năm 1682 và chết ở
đó vào tháng Giêng năm sau. Khi địa điểm mưu sát hoàng gia bị phát
hiện, cũng như Shaftesbury, Locke phải lập tức lên tàu sang Hà Lan như
một nhà cách mạng lưu vong. Ngay sau cuộc Cách mạng Vinh quang năm
1688, Locke trở về Anh, trên du thuyền hoàng gia của Công nương Mary.
Loạt các
tác phẩm lừng danh định hình nên vị thế của Locke trong lịch sử tư duy
nhân loại, vốn đã viết trước đó, được công bố không lâu sau thời điểm
thành công của Cách mạng.
Năm
1696, Ủy ban Thương mại được phục hồi và Locke tiếp tục công việc tại đó
như một người có vai trò quan trọng bậc nhất. Năm 1700, Locke hồi hưu
và mất ngày 28 tháng Mười năm 1704 vì chứng hen suyễn vào tám năm
cuối đời.
Do sự
dính líu của Locke vào các kế hoạch chống lại James II của Shaftesbury,
giới học giả cho rằng chính Khảo luận thứ hai, với kết thúc bằng một
kết luận “thí quân”, được viết ra để phục vụ cho những dự trù cách mạng
của nhóm này.
Thời
điểm viết Hai khảo luận về chính quyền nay được cho là vào thời gian xảy
ra khủng hoảng của dự luật tống xuất anh em Quốc vương James II. Sự
thất bại của dự luật này đã đưa Locke và các đồng chí của ông đến với
quan điểm khởi nghĩa vũ trang.
Khảo
luận thứ nhất về chính quyền nhắm đến việc biện bác cách nhìn gia trưởng
về thánh quyền của vua chúa, đã được Sir Robert Filmer (1588‐1653)
truyền bá[3].
Locke đã phê phán luận điểm của Filmer cho rằng con người không phải
là tự do mặc nhiên, và mọi chính quyền chân chính đều là nền quân chủ
chuyên chế, vua chúa là những người được truyền tiếp từ con người đầu
tiên, tức Adam.
Khảo
luận thứ hai về chính quyền, với tựa phụ là Luận về nguồn gốc, phạm vi
và mục đích chân chính của chính quyền dân sự, là nơi Locke trực tiếp
đưa ra học thuyết của mình về nhà nước. Những kiến giải của Locke dựa
trên cái phương án chung của triết học chính trị thế kỷ XVII và XVIII,
là quan niệm về các quyền tự nhiên và khế ước xã hội.
Sau khi
đưa ra định nghĩa về quyền lực chính trị tại chương I, trong chương II
của Khảo luận, Locke mô tả một trạng thái không có chính quyền và
quyền lực chính trị thực tế. Đó là trạng thái tự nhiên. Nếu chúng ta
xem xét trạng thái tự nhiên trước khi có chính quyền, nó là một trạng
thái bình đẳng chính trị, trong đó không đương nhiên có phẩm bậc cao
hơn hay thấp hơn. Nghĩa vụ và sự yêu thương mà mọi người có với nhau
chính là xuất phát từ sự bình đẳng này.
Theo
Locke, Thượng đế tạo tác ra con người, và họ là sở hữu của ngài. Mục
đích chính mà đấng Tạo hóa tạo ra chúng ta, với tư cách giống loài và
với tư cách cá nhân, là sống còn, nên: không thể giả định bất kỳ sự lệ
thuộc nào giữa những con người chúng ta, nghĩa là có thể trao quyền cho
ta đi hủy diệt người khác, hoặc như thể chúng ta được tạo ra là để
cho người khác sử dụng, giống như những sinh vật ở hạng thấp kém hơn
là dành cho việc sử dụng của chúng ta (§6).
Nếu con
người có mục đích là sống còn, vậy đâu là những phương tiện cần thiết
cho mục đích đó? Theo kiến giải của Locke, những phương tiện đó đơn
giản chính là sinh mạng, quyền tự do, sức khỏe và sở hữu.
Ở chương
III và IV, Locke xác định trạng thái chiến tranh và trạng thái nô lệ.
Trạng thái chiến tranh là nơi mà người nào đó có ý định xâm phạm đến
quyền sống của người khác. Người như vậy đã đặt chính mình vào trạng
thái chiến tranh với người mà cuộc sống bị nhắm lấy đi. Theo học thuyết
của Locke, trong trạng thái chiến tranh, nạn nhân vô tội ở một bên,
bên kia là kẻ đi xâm đoạt bất chính, vì ngay cả trong một cuộc chiến
chính nghĩa, nếu vượt quá những giới hạn rất hẹp của nó, chính nghĩa
lập tức trở nên phi nghĩa.
Trạng
thái nô lệ là nơi sống dưới quyền lực tuyệt đối hay độc đoán của người
khác. Locke nói với chúng ta rằng trạng thái nô lệ là sự tiếp tục của
trạng thái chiến tranh giữa người đi chinh phạt hợp pháp và người bị
thất trận. Locke cho rằng trạng thái nô lệ bất chính là cái mà các nền
quân chủ chuyên chế muốn áp đặt lên nhân dân.
Về sở
hữu là một trong những chương nổi tiếng nhất, có ảnh hưởng và quan trọng
nhất trong Khảoluận thứ hai về chính quyền. Tại chương này, Locke
trình bày quá trình con người từ chỗ hái lượm ‐ như một hành động chiếm
hữu đơn giản nhất, đi đến chiếm hữu đất đai, rồi trao đổi sản phẩm
làm ra và dùng đến tiền, để khởi sinh sở hữu và tư hữu. Tất cả đều
được thực hiện thông qua lao động và không phải với sự chiếm hữu vô
độ. Thông qua đó, Locke đã mô tả sự tiến hóa, về mặt kinh tế, của
trạng thái tự nhiên đến thời điểm thích hợp cho những người sống trong
đó xây dựng một xã hội dân sự, là nơi không chỉ thiết định một quyền
lực chính trị cho con người và bộ máy cai trị, mà còn thiết định nên
sở hữu cho mọi thành viên xã hội. Vì thế, đây không chỉ là một kiến
giải về bản chất và nguồn gốc của tư hữu, mà còn dẫn đến một giải
thích là tại sao chính quyền dân sự thay thế cho trạng thái tự nhiên.
Chính
quyền dân sự hình thành do những khó khăn cho các quan hệ trong trạng
thái tự nhiên. Rất rõ ràng, theo cách nhìn của Locke, những khó khăn này
tăng lên cùng với sự tăng lên của dân số, sự giảm bớt nguồn tài
nguyên sẵn có, và sự xuất hiện bất bình đẳng kinh tế như là kết quả
đưa đến từ việc sử dụng tiền. Những điều kiện này đã dẫn đến việc gia
tăng số lượng những vụ việc xâm phạm đến luật tự nhiên, đòi hỏi có sự
phân xử và người phân xử được thừa nhận… Và tất cả điều này đã dẫn đến
việc mở đầu một chính quyền dân sự.
Vào thời
Locke, đã có nhiều quan điểm cho rằng chính quyền, về nguồn gốc, là
được thiết lập bằng vũ lực, và rằng không có sự thỏa thuận nào có liên
quan. Locke không hoàn toàn bác bỏ những trường hợp chính quyền được
định hình từ vũ lực, nhưng theo ông, chính quyền dân sự chân chính được
thiết lập bằng sự chấp thuận của những người sẽ chịu sự cai quản.
Những người này chuyển cho chính quyền dân sự quyền thực thi luật tự
nhiên của họ. Sự chuyển giao này là cái tạo cho hệ thống công lý của
chính quyền dân sự một chức năng công chính.
Mục đích
của một chính quyền dân sự chân chính như vậy là bảo toàn ‐ tối đa có
thể được ‐ quyền sống, quyền tự do, sức khỏe và sở hữu của thần dân,
là truy tố và trừng phạt những người xâm phạm vào quyền của người
khác. Khi thực hiện điều này, nó đem lại cái không sẵn có trong trạng
thái tự nhiên, là một quan tòa vô tư để xác định tính chất của tội
phạm và quy định một hình phạt tương xứng. Một chính quyền dân sự bất
chính sẽ thất bại trong việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, sức khỏe
và sở hữu của công dân, và trong những trường hợp tồi tệ nhất, loại
chính quyền này sẽ còn đòi hỏi có quyền xâm phạm đến các quyền như thế
của thần dân, để rồi dẫn đến một quyền lực chuyên chế, bạo chính.
Locke
cũng đưa ra những kiến giải về quyền lực gia trưởng và quyền lực chính
trị. Quyền lực của người cha là có giới hạn, chỉ trong thời gian vị
thành niên của con cái. Quyền lực chính trị, khi nó xuất phát từ sự
chuyển nhượng quyền lực của các cá nhân để tạo hiệu lực thực thi luật tự
nhiên. Trái lại, quyền lực bạo chính lại hàm chứa cái quyền lấy đi
sinh mạng, tự do, sức khỏe, và sở hữu của bất kỳ ai khuất phục dưới
quyền lực này.
Điều đó
dẫn đến giải pháp mà Locke nêu lên phần vào cuối Khảo luận thứ hai.
Chúng ta sẽ nghe về bản chất của chính quyền dân sự bất chính và những
điều kiện chính danh và thích đáng cho việc nổi loạn và thí quân. Chính
quyền dân sự bất chính nhắm xâm phạm một cách có hệ thống các quyền
tự nhiên của thần dân. Trong những tình cảnh như thế, nổi loạn là một
hành động công chính, giống như việc giết một con thú hung tợn nguy
hiểm vậy. Locke vẫn nói rằng quyền lực mà nhân dân đã trao cho chính
quyền không thể quay về với họ chừng nào mà chính quyền còn tồn tại ‐
đương nhiên là tồn tại có tính công chính, nhưng một khi chính quyền
đó thất bại trong nhiệm vụ mà vì đó nó được nhân dân thiết định, là
bảo toàn cho họ về quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu, thì ‐
Locke kiên quyết ‐ nhân dân có quyền hành động với tư cách quyền lực
tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp, hoặc dựng lên một hình
thức chính quyền mới, hoặc vẫn theo hình thức cũ đó nhưng được đặt
vào tay những con người mới, theo những gì họ cho là tốt đẹp (§243).
Đó cũng
chính là điều mà Hồ Chí Minh sau này, trong quá trình tiếp thu tinh hoa
tư tưởng nhân loại đã nói, và là điều được giới nghiên cứu trong nước
đánh giá là một trong những điểm cách mạng nhất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước, đó là: Nếu Chính phủ làm hại dân, thì dân có quyền
đuổi Chính phủ[4].
Học
thuyết của Locke có những giá trị lịch sử và thời đại như thế nào, và có
thể tiếp thu, vận dụng được gì trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta hiện nay, xin dành lại cho quý độc giả, giới nghiên
cứu và các anh chị em sinh viên tiếp tục làm rõ. Nhưng có một điều có
thể nói ở đây, rằng qua những gì nó thể hiện, đó là một tuyệt tác cách
mạng của một con người cách mạng, mà không hề là một tác phẩm thỏa
hiệp của một tư tưởng thỏa hiệp.
Để kết thúc phần giới thiệu sơ lược này của mình, tôi xin có vài lưu ý lên quan đến quy cách của bản dịch.
Tác phẩm
của Locke là một công trình được tái bản nhiều lần ngay vào thời ông
còn sống và sau đó. Đã có những thay đổi sau những lần biên tập. Tuy
nhiên có hai phiên bản được sử dụng rộng rãi nhất, là bản năm 1764 và
năm 1824, gần như nhau. Bản dịch này căn cứ theo phiên bản năm 1764, do
Cambridge University Press ấn hành năm 2005, có đối chiếu với phiên
bản 1689 do Prometheus Books ấn hành năm 1986.
Do tầm
quan trọng của Khảo luận thứ hai, nó được tổ chức dịch thuật trước, nên
rất tiếc toàn bộ Hai khảo luận về chính quyền chưa kịp giới thiệu đến
bạn đọc. Nhưng mong rằng qua những gì được cố gắng chuyển tải trong
nội dung bản dịch cũng như ở các chú thích, độc giả có thể nắm vấn đề,
dù chưa trọn vẹn.
Về tên
của tác phẩm, vẫn thường được dịch là “Khảo luận thứ hai về chính quyền
dân sự”. Đây là vấn đề về kết câu chữ giữa hai ngôn ngữ, còn thực tế
thì chỉ có một khảo luận về chính quyền dân sự, còn khảo luận kia (Khảo
luận thứ nhất về chính quyền), như đã nói, là phê phán cái chính
quyền thần thánh của Sir Robert Filmer. Vì vậy bản dịch này xin được
làm rõ tựa đề, là Khảo luận thứ hai về chính quyền ‐ Chính quyền dân
sự.
Trong
tác phẩm, Locke dùng nhiều đến các “điển tích” trong Kinh thánh. Hiện
nay, Kinh thánh đã có ở nhiều phiên bản tiếng Việt, tuy nhiên, để bảo
đảm văn phong của một bản văn lý luận, ở những chỗ như vậy tôi không sử
dụng ngôn ngữ thuần Thiên chúa giáo, mà chỉ trong chừng mực dung hòa
với ngôn ngữ triết lý và thế tục.
Trong
văn phong cổ thường có tình trạng dùng câu phức rất dài, và việc bỏ dấu
cũng thường gây nên vấn đề cho độc giả ngày nay. Để giúp người đọc dễ
dàng hơn khi tiếp cận bản văn, những chỗ ngắt câu và ngắt đoạn do
người dịch thực hiện sẽ được đánh dấu bằng dấu ngoặc vuông ([…]).
Những từ, ngữ được thêm vào cho người đọc dễ hiểu cũng được đặt trong
ngoặc này.
Điểm sau
hết trong phần quy cách này, là các chú thích của Locke có kèm theo
dấu hoa thị (*), ngoài ra là các chú thích của người dịch.
Cuối
cùng, tôi không quên gửi lời cám ơn đến Học giả Đặng Phùng Quân (Texas,
Hoa Kỳ) và anh Nguyễn Văn Nghị (Thành phố Hồ Chí Minh) đã sẵn lòng
giúp đỡ trao đổi với tôi về một số từ ngữ và câu chữ Latin; cám ơn
Tiến sỹ Luật khoa Trần Thiện Huy (Texas, Hoa Kỳ), bạn tôi, người đã
tìm kiếm các văn bản của Locke cho tôi; cám ơn chị Nguyễn Phương Loan,
biên tập viên của Nhà xuất bản Tri thức, đã hợp tác cùng tôi và có
những ý kiến hữu ích cho sự ra mắt tác phẩm này của Locke.
Tp. Hồ Chí Minh, 28‐12‐2006
Lê Tuấn Huy
*****
MỤC LỤC
Lời người dịch
Lời tựa
Chương I
Chương II - Về trạng thái tự nhiên
Chương III - Về trạng thái chiến tranh
Chương IV - Về tình trạng nô lệ
Chương V - Về sở hữu
Chương VI - Về quyền lực gia trưởng
Chương VII - Về xã hội chính trị và xã hội dân sự
Chương VIII - Về sự khởi đầu của xã hội chính trị
Chương IX - Về mục đích của xã hội chính trị và của chính quyền
Chương X - Về các hình thức của cộng đồng quốc gia
Chương XI - Về phạm vi của cơ quan quyền lực lập pháp
Chương XII - Về cơ quan lập pháp, hành pháp và quyền liên hiệp của cộng đồng quốc gia
Chương XIII - Về sự phụ thuộc của các cơ quan quyền lực thuộc cộng đồng quốc gia
Chương XIV - Về đặc quyền hành động
Chương XV - Về quyền lực gia trưởng, quyền lực chính trị và quyền lực chuyên chính khi xem xét chung
Chương XVI - Về sự chinh phạt
Chương XVII - Về sự tiếm quyền
Chương XVIII - Về chế độ chuyên chế
Chương XIX - Về sự giải thể của chính quyền
[1]
Locke còn có Thư bàn về khoan dung thứ hai (A Second Letter Concerning
Toleration, 1692) và Thư bàn về khoan dung thứ ba (A Third Letter for
Toleration, 1693).
[2] Xem chú thích tại Lời tựa.
[3] Xem chú thích tại Lời tựa.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 60.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.