28 tháng 7, 2011
26 tháng 7, 2011
"Vĩnh biệt Condo, bậc hiền triết của chúng ta, của Tây Nguyên" - Nhà văn Nguyên Ngọc
Georges Condominas đã ra đi trong đêm thứ bảy 16 rạng sáng chủ nhật 17-7-2011. Thế giới vừa mất một trong những nhà dân tộc học lớn nhất của mình. Chắc chắn trong những ngày đến sự kiện này sẽ gây xao động không chỉ ở Pháp, và ở Việt Nam, nơi nhà bác học này đặc biệt gắn bó. Và tôi chắc ở một nơi sâu tít trong tận cùng Tây Nguyên, tại cái làng nhỏ có tên là Sar Luk bên bờ con sông Krong Nô hoang vắng, dưới chân dãy Chư Yang Sin hùng vĩ, một dân tộc rất nhỏ tên là dân tộc Mnông Gar sẽ làm lễ bỏ mã cho ông, Yoo Condo thân thiết của họ - Yoo là cách người Mnông Gar gọi người nơi khác đến mà đã trở nên ruột thịt.
Nhãn:
Tác giả kinh điển
14 tháng 7, 2011
CHỈ SỐ QH -Mối quan hệ (social relation)
Ngô Văn Huấn
Con người đã sáng tạo ra chỉ số IQ để đo lường trí thông minh bằng những con số định lượng dựa trên những chỉ báo trắc nghiệm tâm lý và tư duy của từng người rất hữu hiệu. Nhưng con người là một cá nhân được tổng hòa bởi rất nhiều yếu tố. Trí thông minh chỉ là một yếu tố, dù rằng nó được đánh giá khá cao những hoàn toàn không phải là quyết định đến sự thành bại của một cá nhân. Có một nhân vật trong bộ phim Chủ tịch tỉnh đang được phát sóng trên VTV1 đã nói một câu rất có lý trong xã hội hiện nay “chỉ số IQ không bằng chỉ số QH”. Điều này là một thực tế ở Việt Nam hiện nay. Nhiều bạn sinh viên sau khi ra trường muốn tìm việc làm thì bài học vỡ lòng đầu tiên phải học thuộc và suy ngẫm là “Nhất thân nhì quen”. Còn trong cơ quan công quyền một điều cũng gần như là chân lý “Ba năm phấn dấu không bằng cơ cấu một lần”. Thực tế đó đã cho thấy tính quan trọng mối quan hệ xã hội của mỗi người.
12 tháng 7, 2011
CÁC BƯỚC TRONG PHỎNG VẤN
Ngô Văn Huấn
1- Chuẩn bị các công cụ cần thiết cho cuộc PV:
- Bảng hỏi, bút, máy ảnh, máy ghi âm....
- Trang phục phù hợp, thoải mái
- Nếu là 2 người: xác định ai hỏi, ai ghi chép
2- Tiếp cận người được PV:
- Tự giới thiệu, xin phép được PV
- Tìm một chỗ để PV thuận lợi: chỗ ngồi có thể ghi chép được, có thể nghe rõ người trả lời nói, có thể quan sát được người trả lời...
3- Bắt đầu PV:
- Giải thích rõ về mục đích của nghiên cứu
- Nếu sử dụng máy ghi âm hay chụp ảnh cần phải xin phép
- Có thể kết hợp vài câu hỏi để làm quen: nói về thời tiết, thị trường, thời sự….
- Hỏi tên người mình PV (lúc bắt đầu hoặc cuối cuộc PV)
- Dự kiến những câu hỏi mình đưa ra
- Tuân thủ các câu hỏi trong bảng hỏi hoặc phác thảo trình tự câu hỏi nhưng không nên cứng nhắc
- Nhấn mạnh đến những câu hỏi mà người trả lời nắm rõ
- Tránh những câu hỏi chung chung, trừu tượng
- Tránh những câu hỏi sáo rộng, hiển nhiên
- Khi thấy cuộc PV nhạt nhẽo, vô ích hãy tìm cách kết thúc một cách lịch sự
- Khi người trả lời chưa trả lời câu hỏi của mình thì nhắc lại một các khéo léo mà không bị lặp
- Khi người trả lời nói sang chuyện khác, người PV phải biết “lái” sang chủ đề chính
- Khuyến khích người trả lời đưa ra những ví dụ minh họa
- Nếu cuộc PV quá dài nên nghỉ giải lao bằng cách tán gẫu, nhưng không được sa đà
- Tránh những câu hỏi quá “nhạy cảm”
- Nền đặt những câu hỏi để người trả lời giải thích rõ hơn ý của mình
- Luôn biểu lộ thái độ biết lắng nghe hay ghi chép
- Hỏi lại những thông tin còn chưa rõ, hoặc cần tìm hiểu sâu hơn.
4- Kết thúc
- Nói lời kết thúc
- Không quên lời cảm ơn, nhưng không hứa hẹn bất cứ điều gì khi mình không làm được hoặc không thuộc chức trách của mình
- Lời chào lịch sự.
NHỮNG ĐIỀU THƯỜNG GẶP PHẢI TRONG MỘT CUỘC PV
Ngô Văn Huấn
- Định kiến của người PV đối với người trả lời PV
- Đang PV 1 người có nhiều thì người “nhảy vào”
- Việc diễn đạt khó khăn do rào cản ngôn ngữ, giọng nói
- Cảm thấy mệt mỏi và bão hòa khi kết quả không tốt
- Địa vị xã hội và giới tính của pv viên, người được
- Hình thức bên ngoài của người được PV: giọng nói, quần áo, tuổi tác, hình dáng...
- Không hiểu rõ về vấn đề mình nghiên cứu
- Sự từ chối của người trả lời
- Những nội dung nhạy cảm
- Những tình huống nhạy cảm
- Bị hiểu sai là tiếp thị….
- Ảnh hương của thời tiết, không gian PV.
9 tháng 7, 2011
CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI
Ngô Văn Huấn
Con người
Con người làm một sự kiến tạo từ ba yếu tố sau:
· Con người là một thực thể sinh học được tạo bởi những bộ phân, các cơ quan và vận hành theo quy luật sinh học.
· Con người là thực thể tinh thần: con người có tình cảm đau buồn, vui sướng, tâm linh biết làm điều thiện ác. Các nhà đạo đức học, tâm lý học, văn học, nhân học… nghiên cứu con người ở phương diện này
Otto Graf Lambsdorff – Tự do: Biện pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu nhất (1)
Phạm Nguyên Trường dịch
Đói nghèo là một thách thức
Đói nghèo trên diện rộng vẫn là một vấn đề của cộng đồng thế giới. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới thì năm 1988 có 1,2 tỷ người sống trong tình trạng nghèo đói tuyệt đối, nghĩa là với ít hơn 1$ một ngày. Một nửa trong số đó nằm trong các khu vực Nam Á. Mặc dù trong những năm vừa qua tỉ lệ nghèo đói có giảm bớt, nhưng đây vẫn lá vấn đề lớn nhất của nhân loại.
8 tháng 7, 2011
CỘNG ĐỒNG KHU VỰC
Stanislaw Ossowski, Lê Hải dịch[1]
Có lúc ở một nơi khác tôi từng phân chia giữa hai khái niệm “tổ quốc riêng tư” và “tổ quốc ý thức hệ”[2], rằng khi nói đến tổ quốc ý thức hệ[3] tôi nghĩ đến lãnh thổ quốc gia, và toàn bộ phân tích đó phát xuất từ các nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc hiện đại. Nhưng khái niệm tổ quốc ý thức hệ trong này mang phạm vi rộng hơn: tổ quốc ý thức hệ là khu vực mà cá nhân liên hệ không chỉ qua trải nghiệm cá nhân và trực tiếp liên quan tới lãnh thổ đó và được tạo ra qua hoạt động cuộc sống bình thường, mà còn thông qua việc lệ thuộc vào một cộng đồng nhất định, vào nhóm mà cái lãnh thổ đó phần nào định hình. Vai trò các yếu tố cá nhân trong quan hệ cá thể với tổ quốc ý thức hệ hoàn toàn là giao thoa giữa tổ quốc riêng tư và tổ quốc ý thức hệ.
7 tháng 7, 2011
XÃ HỘI HỌC CHIẾN TRANH
Ghi chép từ một công trình
nghiên cứu xã hội học Nga
nghiên cứu xã hội học Nga
-Vương Trí Nhàn-
Nếu đọc bài viết Bối cảnh lịch sử Việt nam giai đoạn 1558-1802 tập san Nghiên cứu Huế tập VII, NXB Thuận Hóa 2010, ở tr 93-95, người ta sẽ thấy nhà sử học Nguyễn Hữu Châu Phan cho biết :
“Họ Nguyễn trong lãnh thổ Đàng Trong từng dùng chính sách táo bạo” biến hết dân làm binh”.
“Một tu viện trưởng là Choisy, đến Đàng Trong vào năm 1656 nhận xét “Người Đàng Trong chỉ sống với chiến tranh.”
“Thích Đại Sán, một nhà sư Trung quốc cũng có mặt thời ấy thì ghi nhận là trong nước[ Đàng Trong] , hay bàn việc võ bị, chẳng chuộng văn đức’.
“Ông này còn kể “ hỏi chuyện biết rằng trong nước trăm thứ thợ đều do quân nhơn làm. Mỗi năm vào khoảng tháng ba tháng tư quân nhơn đi các làng, bắt dân từ 16 trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái gông tre, hình như cái thang, nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân; vào quân đội rồi mỗi người bắt chuyên học một nghề ...có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương phủ làm xâu ... Những dân còn lại ở nhà toàn gầy yếu tàn tật chẳng có mấy người mạnh mẽ “.
Cả Đàng Ngoài thời ấy cũng được tổ chức để sẵn sàng chinh chiến. Nhiều tài liệu của các giáo sĩ phương Tây gọi các chúa Trịnh là các tướng quân, các đại nguyên súy...
Nhưng đó không phải là đặc điểm riêng của thế kỷ XVII - XVIII . Mà trên nét lớn, phải nhận là tình hình chung của dân mình xứ sở mình quốc gia mình kéo dài suốt cả trường kỳ lịch sử . Có cảm tưởng như trong quá khứ, trong phần lớn thời gian tồn tại, cộng đồng chúng ta sống như một đạo quân hơn là một xã hội bình thường. Hoặc đó là một xã hội quân sự hóa hơn là xã hội dân sự.
Muốn hiểu một quá khứ như thế, người nghiên cứu phải đi vào tìm hiểu tác động của chiến tranh tới cách tổ chức xã hội cũng như sự hình thành cá nhân nói chung.
Nhưng ở ta hướng nghiên cứu này gần như chưa được triển khai. Trên đường tìm tới một cái nhìn khái quát, chúng ta không thể không bảo nhau cầu viện sự trợ giúp của sách vở nước ngoài, nhất là thành tựu của các ngành khoa học xã hội hiện đại.
Sau đây là một tài liệu tiếng Nga tôi đã tìm được và tạm ghi chép lại ( chứ không phải là bản lược thuật chính xác cuốn sách đã đọc ).
Xã hội học chiến tranh
Bản tiếng Nga của V.V. Serebryannikov
Tác giả sách là giáo sư tiến sĩ khoa học triết học .
Sách nằm trong chương trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu xã hội chính trị Viện hàn lâm khoa học Nga và Trung tâm xã hội học các vấn đề an ninh quốc gia
Nhà xuất bản Thế giới khoa học , Moskva, 1977
Chương III
Chiến tranh và xã hội.
Tác động chiến tranh tới xã hội
Chiến tranh khá hào hiệp trong việc “chặt phá” “đốn ngã” những người mạnh khoẻ, tài năng đương sức. Số phần trăm người xuất sắc có tài có đạo lý mà chết lớn hơn nhiều so với số phần trăm những kẻ bình thường.
Điều này khiến cho sau chiến tranh, tiềm năng sáng tạo của xã hội bị hạ thấp. (Theo P.Sorokin Tình trạng hiện thời của nước Nga Novyi Mir 1992 số 4-5 )
Đầu chiến tranh vệ quốc, tất cả nam giới ở các trường cao đẳng đi lính. Số này chết với tỷ lệ cao, gấp 6-7 lần người thường.
P. Sorokin kết luận, tất cả các cuộc chiến tranh và cách mạng đều là công cụ chọn lọc có tính chất tiêu cực trước hết với những yếu tố tốt đẹp trong cư dân.
[tr 90] Chiến tranh đưa đám đông trở lại tình trạng dã man, làm tan rã đời sống tinh thần, làm họ hung bạo như thú dữ, làm họ hoang dã như các giống vật chưa thuần hoá. Cùng với chiến tranh là sự phổ biến của bạo lực, sự phi nhân hoá, sự thụt lùi, tan vỡ các giá trị cuộc sống. Các cuộc chiến tranh lớn là nhân tố làm thoái hoá con người.
Trong chiến tranh các dân tộc trở nên phân hoá, người theo ta, người theo địch, người đi du kích, người trốn tránh. Làm cho con người trở nên giống nhau, làm cho dân tộc tự tách biệt khỏi thế giới. Chỉ với các xã hội theo mô hình chủng tộc -- những dạng xã hội không có cá nhân và, nói cho chính xác ra là chưa hình thành V.T.N.-- chiến tranh mới là nhân tố khiến nó trở nên gắn kết.
[tr 94] Chiến tranh phục vụ lớp người có quyền. Còn những nhà văn hoá, nhà khoa học thì đóng vai “chiến đấu” – “ca ngợi” - theo đơn đặt hàng của lớp người có quyền đó.
Chiến tranh làm cho những người thuộc loại dân đen song liều lĩnh táo gan – nói một cách sang trọng là có tinh thần dũng cảm, thông minh -- sớm được đứng vào hàng ngũ quý tộc quân sự và chuẩn bị bước vào giai tầng lãnh đạo.
Chớ nên dừng lại ở những cuộc chiến tranh lớn. Chính những cuộc chiến tranh nhỏ cũng làm mòn sức lực con người.
Các dân tộc quen chiến tranh cũng sinh thói quen dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội.
[Tr 95] Chiến tranh là một hiện tượng chém giết tự phát ….
Từ thời cổ, chiến tranh tạo ra sự vận động xã hội. Tính chất tiến bộ của chiến tranh là thuộc về quá khứ. Trong xã hội hiện đại, người ta không tìm thấy ở đây một cái gì tương tự; ngược lại, người ta chỉ thấy kinh tởm và xa lạ.
Với chiến tranh, người ta đánh mất mình. Họ không còn khả năng chịu đựng sức ép nặng nề của nó, không còn khả năng bình phục trước mọi đòn đánh của nó.
Trong lúc các nhà quân sự hay nghĩ tới đại chiến thế giới (!), thì thật ra cả những cuộc chiến tranh nhỏ cũng không phải là không tránh khỏi.
Giờ đây, người ta thường coi nó chẳng qua chỉ là kết quả của những lựa chọn sai lầm tuỳ tiện của các nhà chính trị, khi những người này suy nghĩ bằng những phạm trù của các thế kỷ cũ.
Mang lên mà cân tính thì thấy:
1. Chiến tranh hại nhiều hơn lợi.
2. Số cuộc chiến tranh “thúc đẩy tiến bộ” chỉ là một số nhỏ trong lịch sử.
3. Phạm trù “tính tiến bộ” không áp dụng được với những cuộc chiến tranh hiện đại (thời khoa học kỹ thuật)
Vũ khí hiện đại biến chiến tranh thành một hiện tượng bùng phát của huỷ diệt.
Riêng về các cuộc nội chiến:
- Vật hy sinh ở đây là dân thường
- Sau chiến tranh, họ rất khó chuyển sang đời sống lao động bình thường
Nẩy sinh nội chiến khi có thay đổi ghê gớm trong hệ thống giá trị của xã hội. Với nhóm xã hội này, hệ thống ấy là bắt buộc; với nhóm khác lại không thể chịu được.
Chương VII Con người và chiến tranh
Chiến tranh khá hào hiệp trong việc “chặt phá” “đốn ngã” những người mạnh khoẻ, tài năng đương sức. Số phần trăm người xuất sắc có tài có đạo lý mà chết lớn hơn nhiều so với số phần trăm những kẻ bình thường.
Điều này khiến cho sau chiến tranh, tiềm năng sáng tạo của xã hội bị hạ thấp. (Theo P.Sorokin Tình trạng hiện thời của nước Nga Novyi Mir 1992 số 4-5 )
Đầu chiến tranh vệ quốc, tất cả nam giới ở các trường cao đẳng đi lính. Số này chết với tỷ lệ cao, gấp 6-7 lần người thường.
P. Sorokin kết luận, tất cả các cuộc chiến tranh và cách mạng đều là công cụ chọn lọc có tính chất tiêu cực trước hết với những yếu tố tốt đẹp trong cư dân.
[tr 90] Chiến tranh đưa đám đông trở lại tình trạng dã man, làm tan rã đời sống tinh thần, làm họ hung bạo như thú dữ, làm họ hoang dã như các giống vật chưa thuần hoá. Cùng với chiến tranh là sự phổ biến của bạo lực, sự phi nhân hoá, sự thụt lùi, tan vỡ các giá trị cuộc sống. Các cuộc chiến tranh lớn là nhân tố làm thoái hoá con người.
Trong chiến tranh các dân tộc trở nên phân hoá, người theo ta, người theo địch, người đi du kích, người trốn tránh. Làm cho con người trở nên giống nhau, làm cho dân tộc tự tách biệt khỏi thế giới. Chỉ với các xã hội theo mô hình chủng tộc -- những dạng xã hội không có cá nhân và, nói cho chính xác ra là chưa hình thành V.T.N.-- chiến tranh mới là nhân tố khiến nó trở nên gắn kết.
[tr 94] Chiến tranh phục vụ lớp người có quyền. Còn những nhà văn hoá, nhà khoa học thì đóng vai “chiến đấu” – “ca ngợi” - theo đơn đặt hàng của lớp người có quyền đó.
Chiến tranh làm cho những người thuộc loại dân đen song liều lĩnh táo gan – nói một cách sang trọng là có tinh thần dũng cảm, thông minh -- sớm được đứng vào hàng ngũ quý tộc quân sự và chuẩn bị bước vào giai tầng lãnh đạo.
Chớ nên dừng lại ở những cuộc chiến tranh lớn. Chính những cuộc chiến tranh nhỏ cũng làm mòn sức lực con người.
Các dân tộc quen chiến tranh cũng sinh thói quen dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội.
[Tr 95] Chiến tranh là một hiện tượng chém giết tự phát ….
Từ thời cổ, chiến tranh tạo ra sự vận động xã hội. Tính chất tiến bộ của chiến tranh là thuộc về quá khứ. Trong xã hội hiện đại, người ta không tìm thấy ở đây một cái gì tương tự; ngược lại, người ta chỉ thấy kinh tởm và xa lạ.
Với chiến tranh, người ta đánh mất mình. Họ không còn khả năng chịu đựng sức ép nặng nề của nó, không còn khả năng bình phục trước mọi đòn đánh của nó.
Trong lúc các nhà quân sự hay nghĩ tới đại chiến thế giới (!), thì thật ra cả những cuộc chiến tranh nhỏ cũng không phải là không tránh khỏi.
Giờ đây, người ta thường coi nó chẳng qua chỉ là kết quả của những lựa chọn sai lầm tuỳ tiện của các nhà chính trị, khi những người này suy nghĩ bằng những phạm trù của các thế kỷ cũ.
Mang lên mà cân tính thì thấy:
1. Chiến tranh hại nhiều hơn lợi.
2. Số cuộc chiến tranh “thúc đẩy tiến bộ” chỉ là một số nhỏ trong lịch sử.
3. Phạm trù “tính tiến bộ” không áp dụng được với những cuộc chiến tranh hiện đại (thời khoa học kỹ thuật)
Vũ khí hiện đại biến chiến tranh thành một hiện tượng bùng phát của huỷ diệt.
Riêng về các cuộc nội chiến:
- Vật hy sinh ở đây là dân thường
- Sau chiến tranh, họ rất khó chuyển sang đời sống lao động bình thường
Nẩy sinh nội chiến khi có thay đổi ghê gớm trong hệ thống giá trị của xã hội. Với nhóm xã hội này, hệ thống ấy là bắt buộc; với nhóm khác lại không thể chịu được.
Chương VII Con người và chiến tranh
[tr 224] Chiến tranh bộc lộ tài thao lược, sáng kiến. Chiến tranh cho thấy một chiều sâu và cả quy mô của sự suy nghĩ. Tạo nên sự dũng cảm, hy sinh, sự cứu giúp lẫn nhau.
Đồng thời trong con người có sẵn yếu tố muốn chiếm đoạt, gây gổ, chém giết. Chiến tranh đẩy nhanh những cái đó.
[tr 227] Dẫn lại P. Sorokin “Trong chiến tranh, tầng lớp tinh hoa và cả những người theo quan niệm dân gian là “người tốt”, thường dễ chết, do đó chết nhiều hơn; bọn tội phạm, cầu an, lưu manh làm bậy... dễ sống sót hơn.
Trong từng con người, những yếu tố tiêu cực ấy cũng chiến thắng luôn phần tốt đẹp. Chiến tranh làm nghèo đi các quỹ “gien” của nhân loại”
Sorokin cho chiến tranh giống với người làm vườn phá bỏ thứ rau lành nhưng để lại cỏ dại, và hơn thế làm cỏ dại nhân lên nhiều lần.
Với việc cổ động cho việc giết người hàng loạt, chiến tranh làm mất giá bản thân đời sống.
Từ đây người ta hiểu tại sao những kẻ chủ trương chiến tranh thường cổ động cho sự sùng bái khuynh hướng tội ác. Khắc nghiệt tàn bạo; khát máu; sẵn sàng tàn phá các giá trị vật chất và tinh thần. Kể cả thói quen cướp bóc cũng được dung túng.
Sau chiến tranh, nhân loại trở nên kém cỏi tồi tàn đi về mọi phương diện, đặc biệt về đạo đức.
Chiến tranh ảnh hưởng tới sinh lý con người. Ảnh hưởng tới việc xã hội hoá con người.
Đám đông tha hóa
[Tr 229] Với K. Clausevítz, chiến tranh là một loại hoạt động chung sống của con người. Người ta thấy nó ở mọi thời đại mọi cộng đồng.
Chiến tranh có tác dụng tới việc lựa chọn xã hội chọn lọc .
Nhưng chiến tranh càng phát triển, vai trò này càng giảm thiểu và nó trở thành một cái gì có thể tiêu diệt cả nhân loại.
Tác dụng tiêu cực bộc lộ theo nhiều hướng. Nó làm tha hoá đám đông, làm họ xa rời lao động xây dựng và sáng tạo, làm cho phần lớn cư dân rơi vào chết chóc, thương tật.
Tăng tổng số người chết, hạn chế số sinh đẻ. Hạn chế tự do. Làm xấu đi điều kiện xã hội hoá con người cũng tức là những điều kiện để phát triển và bộc lộ tài năng sáng tạo.
[tr 233] Chiến tranh càng phi nghĩa - phi lý, thì sự suy thoái càng rõ.
Tình trạng thoái hoá xảy ra ở những kẻ điên cuồng, “anh hùng hoá“ trong chiến tranh. Đạo lý chỉ còn ở những người có ý thức từ bỏ nó, chống lại nó, lên án kẻ chủ trương nó.
[ tr 234] Trong chiến tranh người ta không thể thắng nếu không hình thành nối trong đội quân mình, giữa các đồng đội của mình, lòng căm thù với quân địch.[Rồi lòng căm thù ấy không rời bỏ họ nữa.]
[tr 235] Các chế độ quyền uy không quan tâm tới việc biến nhân dân thành chủ thể mà chỉ là muốn kiểm soát và chỉ huy họ.
Nỗi sợ
[tr 236] Theo N. Golovin, có hai hướng nghiên cứu quá trình chiến tranh. Nghiên cứu bề ngoài -- các chiến dịch, trận đánh. Và nghiên cứu phía bên trong. Sự thể nghiệm của con người -- bằng máu thịt của mình -- những cảm giác tình trạng đạo đức. Đó là nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu về con người trong chiến tranh.
[tr 239] Cần nghiên cứu sự tiến hoá trong tính tích cực chiến đấu của chiến sĩ, những yếu tố phát triển sáng kiến sự sáng tạo để đạt tới thắng lợi. Tuỳ theo con người mà các hành động trong chiến tranh có thể thế này có thể thế khác.
Lại cần nghiên cứu về nỗi sợ. Người nào cũng có ám ảnh.
[tr 243.]75% những người tham gia chiến tranh tự nhận dù đã được học hỏi, quen với các vấn đề kỹ thuật có tinh thần kỷ luật… song vẫn tỏ ra tiêu cực “lúng túng, hèn, ngại khi vào cuộc, trước tiên là vì mặc cảm yếu kém, cảm thấy mình không là gì cả, lo âu, sợ hãi”
Quân đội Liên xô có thời gian chạy dài từ 28-6 tới 24-7 1942. Một cuộc rút chạy kinh khủng. Trong gần một tháng, rút 400km. Một ngày một đêm đi 15 km.
28-7-1942 có một lệnh đặc biệt của Stalin. Cấm không được quay ngược. Chỉ huy có quyền bắn. Lệnh này hết sức tàn nhẫn, nhưng không có quy định như vậy, không có chiến thắng Stalingrad. Qua đây ta hiểu cái gì đã giúp con người vượt qua nỗi sợ.
Nhiều thống kê cho thấy độ co dãn của người chiến binh Nga rất cao và các nhà chỉ huy đã khai thác nó triệt để.
Chủ nghĩa anh hùng và thời hiện đại
[tr 254] Hiện nay, nhiều người nói về sự phi anh hùng hoá tức sự sụp đổ của chủ nghĩa anh hùng. Nguyên do = cách mạng khoa học kỹ thuật biến người lính thành cái máy.
Hết chủ nghĩa anh hùng = hết những người lãng mạn.
Chủ nghĩa anh hùng liên quan đến vị trí mang tính không gian của người lính trong chiến đấu. Nó cần khi đánh nhau giáp lá cà, gươm dáo, đánh nhau bằng súng nhỏ và không thật cần, chẳng hạn, khi đánh nhau bằng pháo binh (lúc ấy không nhìn thấy nhau). Khoảng cách vũ khí càng xa càng ít yêu cầu dũng cảm mà chỉ cần thực hiện đúng mệnh lệnh.
Đúng hơn, lúc này cần một thứ chủ nghĩa anh hùng trí thức tức sự dũng cảm trong việc thực hiện những quyết định.
Thời chiến tranh các đơn vị thông tin kỹ thuật không có anh hùng.
Đồng thời trong con người có sẵn yếu tố muốn chiếm đoạt, gây gổ, chém giết. Chiến tranh đẩy nhanh những cái đó.
[tr 227] Dẫn lại P. Sorokin “Trong chiến tranh, tầng lớp tinh hoa và cả những người theo quan niệm dân gian là “người tốt”, thường dễ chết, do đó chết nhiều hơn; bọn tội phạm, cầu an, lưu manh làm bậy... dễ sống sót hơn.
Trong từng con người, những yếu tố tiêu cực ấy cũng chiến thắng luôn phần tốt đẹp. Chiến tranh làm nghèo đi các quỹ “gien” của nhân loại”
Sorokin cho chiến tranh giống với người làm vườn phá bỏ thứ rau lành nhưng để lại cỏ dại, và hơn thế làm cỏ dại nhân lên nhiều lần.
Với việc cổ động cho việc giết người hàng loạt, chiến tranh làm mất giá bản thân đời sống.
Từ đây người ta hiểu tại sao những kẻ chủ trương chiến tranh thường cổ động cho sự sùng bái khuynh hướng tội ác. Khắc nghiệt tàn bạo; khát máu; sẵn sàng tàn phá các giá trị vật chất và tinh thần. Kể cả thói quen cướp bóc cũng được dung túng.
Sau chiến tranh, nhân loại trở nên kém cỏi tồi tàn đi về mọi phương diện, đặc biệt về đạo đức.
Chiến tranh ảnh hưởng tới sinh lý con người. Ảnh hưởng tới việc xã hội hoá con người.
Đám đông tha hóa
[Tr 229] Với K. Clausevítz, chiến tranh là một loại hoạt động chung sống của con người. Người ta thấy nó ở mọi thời đại mọi cộng đồng.
Chiến tranh có tác dụng tới việc lựa chọn xã hội chọn lọc .
Nhưng chiến tranh càng phát triển, vai trò này càng giảm thiểu và nó trở thành một cái gì có thể tiêu diệt cả nhân loại.
Tác dụng tiêu cực bộc lộ theo nhiều hướng. Nó làm tha hoá đám đông, làm họ xa rời lao động xây dựng và sáng tạo, làm cho phần lớn cư dân rơi vào chết chóc, thương tật.
Tăng tổng số người chết, hạn chế số sinh đẻ. Hạn chế tự do. Làm xấu đi điều kiện xã hội hoá con người cũng tức là những điều kiện để phát triển và bộc lộ tài năng sáng tạo.
[tr 233] Chiến tranh càng phi nghĩa - phi lý, thì sự suy thoái càng rõ.
Tình trạng thoái hoá xảy ra ở những kẻ điên cuồng, “anh hùng hoá“ trong chiến tranh. Đạo lý chỉ còn ở những người có ý thức từ bỏ nó, chống lại nó, lên án kẻ chủ trương nó.
[ tr 234] Trong chiến tranh người ta không thể thắng nếu không hình thành nối trong đội quân mình, giữa các đồng đội của mình, lòng căm thù với quân địch.[Rồi lòng căm thù ấy không rời bỏ họ nữa.]
[tr 235] Các chế độ quyền uy không quan tâm tới việc biến nhân dân thành chủ thể mà chỉ là muốn kiểm soát và chỉ huy họ.
Nỗi sợ
[tr 236] Theo N. Golovin, có hai hướng nghiên cứu quá trình chiến tranh. Nghiên cứu bề ngoài -- các chiến dịch, trận đánh. Và nghiên cứu phía bên trong. Sự thể nghiệm của con người -- bằng máu thịt của mình -- những cảm giác tình trạng đạo đức. Đó là nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu về con người trong chiến tranh.
[tr 239] Cần nghiên cứu sự tiến hoá trong tính tích cực chiến đấu của chiến sĩ, những yếu tố phát triển sáng kiến sự sáng tạo để đạt tới thắng lợi. Tuỳ theo con người mà các hành động trong chiến tranh có thể thế này có thể thế khác.
Lại cần nghiên cứu về nỗi sợ. Người nào cũng có ám ảnh.
[tr 243.]75% những người tham gia chiến tranh tự nhận dù đã được học hỏi, quen với các vấn đề kỹ thuật có tinh thần kỷ luật… song vẫn tỏ ra tiêu cực “lúng túng, hèn, ngại khi vào cuộc, trước tiên là vì mặc cảm yếu kém, cảm thấy mình không là gì cả, lo âu, sợ hãi”
Quân đội Liên xô có thời gian chạy dài từ 28-6 tới 24-7 1942. Một cuộc rút chạy kinh khủng. Trong gần một tháng, rút 400km. Một ngày một đêm đi 15 km.
28-7-1942 có một lệnh đặc biệt của Stalin. Cấm không được quay ngược. Chỉ huy có quyền bắn. Lệnh này hết sức tàn nhẫn, nhưng không có quy định như vậy, không có chiến thắng Stalingrad. Qua đây ta hiểu cái gì đã giúp con người vượt qua nỗi sợ.
Nhiều thống kê cho thấy độ co dãn của người chiến binh Nga rất cao và các nhà chỉ huy đã khai thác nó triệt để.
Chủ nghĩa anh hùng và thời hiện đại
[tr 254] Hiện nay, nhiều người nói về sự phi anh hùng hoá tức sự sụp đổ của chủ nghĩa anh hùng. Nguyên do = cách mạng khoa học kỹ thuật biến người lính thành cái máy.
Hết chủ nghĩa anh hùng = hết những người lãng mạn.
Chủ nghĩa anh hùng liên quan đến vị trí mang tính không gian của người lính trong chiến đấu. Nó cần khi đánh nhau giáp lá cà, gươm dáo, đánh nhau bằng súng nhỏ và không thật cần, chẳng hạn, khi đánh nhau bằng pháo binh (lúc ấy không nhìn thấy nhau). Khoảng cách vũ khí càng xa càng ít yêu cầu dũng cảm mà chỉ cần thực hiện đúng mệnh lệnh.
Đúng hơn, lúc này cần một thứ chủ nghĩa anh hùng trí thức tức sự dũng cảm trong việc thực hiện những quyết định.
Thời chiến tranh các đơn vị thông tin kỹ thuật không có anh hùng.
Theo: http://vuongtrinhan.blogspot.com
Nhãn:
Lý thuyết,
Xã hội học chuyên ngành
6 tháng 7, 2011
LÃNH THỔ TOÀN VẸN CỦA ĐẤT NƯỚC LÀ BẤT KHẢ XÂM PHẠM
“Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đang khẩn trương hoàn chỉnh bản thảo để xuất bản một công trình nghiên cứu về chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” - GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam cho biết.
CÔNG BỐ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ NÔNG THÔN
Công bố nghiên cứu đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam
Với khối lượng thông tin thu nhập khá đồ sộ thông qua phiếu khảo sát hộ gia đình, báo cáo kết quả nghiên cứu có nhiều phát hiện bổ ích, sát thực về thực trạng phát triển kinh tế nông thôn nói chung và khả năng tiếp cận các nguồn lực phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của hộ gia đình nông thôn Việt Nam nói riêng trong năm 2008 đến 2010, là thời kỳ kinh tế Việt Nam gặp nhiều thách thức do tác động của kinh tế thế giới cũng như những bất ổn kinh tế vĩ mô của nội tại nền kinh tế.
Việc nghiên cứu khả năng tiếp cận các nguồn lực, như: nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nguồn lực đất đai, vấn đề vốn, vấn đề tiếp cận các hệ thống dịch vụ cơ bản, vấn đề phát triển vốn nhân lực, vốn xã hội…ở khu vực nông thôn, sẽ cung cấp các bằng chứng thực tiễn để các cơ quan hoạch định chính sách xây dựng và điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đáp ứng yêu cầu thực tiễn và góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của chương trình nông thôn mới.
Phạm Thu Hà
Ngày 6/7, Viện Quản lý kinh tế trung ương, Viện Chính sách chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, và nhóm Nghiên cứu Kinh tế phát triển thuộc trường Đại học Tổng hợp Copenhagen (Đan Mạch) công bố Báo cáo Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam: kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2010 tại 12 tỉnh.Với khối lượng thông tin thu nhập khá đồ sộ thông qua phiếu khảo sát hộ gia đình, báo cáo kết quả nghiên cứu có nhiều phát hiện bổ ích, sát thực về thực trạng phát triển kinh tế nông thôn nói chung và khả năng tiếp cận các nguồn lực phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của hộ gia đình nông thôn Việt Nam nói riêng trong năm 2008 đến 2010, là thời kỳ kinh tế Việt Nam gặp nhiều thách thức do tác động của kinh tế thế giới cũng như những bất ổn kinh tế vĩ mô của nội tại nền kinh tế.
Việc nghiên cứu khả năng tiếp cận các nguồn lực, như: nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nguồn lực đất đai, vấn đề vốn, vấn đề tiếp cận các hệ thống dịch vụ cơ bản, vấn đề phát triển vốn nhân lực, vốn xã hội…ở khu vực nông thôn, sẽ cung cấp các bằng chứng thực tiễn để các cơ quan hoạch định chính sách xây dựng và điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đáp ứng yêu cầu thực tiễn và góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của chương trình nông thôn mới.
Theo: http://dvt.vn
Nhãn:
Nghiên cứu thực nghiệm
PHẬP GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ ĐẦU KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP TIẾP CẬN TỪ MỘT LUẬN ĐỀ CỦA MAX WEBR
Nhập đề
Nói về Phật giáo và chính trị, đặc biệt thời Lý – Trần, đáng chú ý là ý kiến của Thích Nhất Hạnh trong cuốn sách nổi tiếng Việt Nam Phật giáo sử luận (bút danh Nguyễn Lang). Ông dành hẳn một tiết Đạo Phật và chính trị, trong chương VIII, tập 1 để phân tích. Từ chỗ khẳng định: “Thiền phái Vô Ngôn Thông có Thiền sư Ngô Chân Lưu cũng đóng góp nhiều trong lĩnh vực chính trị. Danh hiệu Khuông Việt Đại sư mà vua Đinh Tiên Hoàng ban cho ông đủ nói lên tầm quan trọng của công tác ông. Khuông Việt có nghĩa là “giúp nước Việt””[1] đến việc nghiên cứu những hoạt động chính trị của các vị Thiền sư nổi tiếng khác như Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Huệ Sinh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ… ở thời Lý – Trần, tác giả đã rút ra nhận định rằng: “Hồi đầu lập quốc các Thiền sư đã mở những cuộc vận động gây ý thức quốc gia, đã sử dụng các môn học phong thủy và sấm vĩ trong các cuộc vận động ấy, đã trực tiếp thiết lập kế hoạch, thảo văn thư, tiếp ngoại giao đoàn, bàn luận về cả những vấn đề quân sự. Nhưng sau đó khi trong triều đình đã có đủ người lo các việc ấy thì họ chỉ giữ vai trò hướng dẫn tinh thần và cố vấn đạo đức… những Thiền sư có tham dự chính sự như Vạn Hạnh trong khi làm việc vẫn giữ thái độ xuất thế của mình, không muốn hòa mình trong vòng danh lợi, xong việc thì rút lui về chùa. Triết học hành động của Vạn Hạnh tiêu biểu cho thái độ chung của các Thiền sư: làm thì làm, nhưng không mắc kẹt vào công việc, không nương tựa và hữu vi. Đó là triết lý vô trụ”[2].
Bài viết của chúng tôi, thông qua sự vận dụng phương pháp Tiếp cận xã hội học các hiện tượng tôn giáo(L’Approche sociologique les faits religeux), của E.Durkheim (1858 – 1917) và đặc biệt của Max Weber (1864 – 1920), để làm rõ hơn khung cảnh, sắc thái, đặc điểm, những hệ luận rút ra từ mối quan hệ Phật giáo và chính trị ở nước ta đầu kỉ nguyên độc lập.
Nhãn:
Lý thuyết,
Tác giả kinh điển
3 tháng 7, 2011
TỔ CHƯC CHÍNH TRỊ
Tổng hợp và biên soạn: Tùng Nguyễn
Mọi xã hội đều phát triển và duy trì những tập tục và phương thức ra và thực thi quyết định, giải quyết xung đột, quy định, và kiểm soát hành vi của các thành viên xã hội. Đồng thời các xã hội cũng cần có những quyết định tập thể về mối quan hệ với môi trường sống hay với các xã hội khác. Các phương thức đó được gọi chung là Tổ chức chính trị, nội dung cơ bản được bàn đến trong phần này. Các loại hình tổ chức chính trị của các xã hội: Tổ chức chính trị tồn tại ở mọi xã hội nhưng mức độ chuyên biệt và cơ chế hoạt động biến đổi từ xã hội này sang xã hội khác, từ đơn giản đến phức tạp. Phần tiếp theo sẽ bàn luận về cách hình thái tổ chức chính trị được biết đến nay trong xã hội loài người, đó là (i) Nhóm, (ii) Bộ lạc, (iii) Chế độ đầu lĩnh, và (vi) Nhà nước.
GIỚI THIỆU SÁCH 7
Văn hoá tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hoá
Thành Long/USSH
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Quang Hưng
Xuất bản: 28/06/2011.
Xuất bản: 28/06/2011.
2 tháng 7, 2011
TỪ KANT ĐẾN MARX
Lời người dịch: Bài viết sau đây (đầu đề do người dịch đặt) không phải là công trình khảo cứu của một nhà nghiên cứu triết học, tác giả của nó là một chuyên gia về văn học Anh, nguyên giáo sư tại Trường Đại học Hamburg. Các trích đoạn về Kant, Hegel và Marx được giới thiệu ở đây là ba trong số hàng trăm tiểu phẩm bàn về những chủ đề rộng lớn của lịch sử và văn hoá Phương Tây từ "Các quốc gia đô thị Hi Lạp", "Sáng thế và tội tổ tông" qua "Âm nhạc thời đại trung cổ", "Einstein và thuyết tương đối" cho đến "Phong trào nữ quyền và chủ nghĩa đa văn hoá" từ cuốn sách best-seller gồm 700 trang của tác giả với cái tên đầy khiêu khích: "Văn hoá - Tất cả những gì người ta cần biết".
Nếu có thể mượn cách diễn đạt của Heinrich Heine trong tác phẩm: "Về lịch sử tôn giáo và triết học Đức", tác giả Dietrich Schwanitz có thể nói: "Các nhà triết học lớn Đức nếu tình cờ bắt gặp những trang sách này sẽ nhún vai một cách tao nhã về trình độ hạn chế của tất cả những gì mà tôi viết ra ở đây". Chọn giới thiệu một số trích đoạn từ một tác phẩm khoa học phổ cập nhân dịp kỉ niệm 280 năm ngày sinh của Kant, người dịch mong chuyển tải đến bạn đọc ấn tượng sống động về quan hệ giữa công luận CHLB Đức đương đại và truyền thống tư tưởng cổ điển Đức, đặc biệt về tư thế phê phán độc lập, khả năng tự hài hước và sự thiếu vắng hoàn toàn phẩm chất anh hùng ca ở công luận này. Với tiêu đề "Từ Kant đến Marx", thiết tưởng một chủ đề thảo luận mang tính thời sự - chính trị có thể và cần thiết được gợi mở, ngõ hầu bổ sung thêm cho những suy tưởng thú vị về các điểm tương đồng và dị biệt giữa Khai sáng và Giác ngộ, giữa Phật và Kant, chủ toàn và chủ biệt v.v.
Trương Hồng Quang
Immanuel Kant (1724 - 1804)
Kant là Copernicus của triết học. Ông đảo ngược hướng nhìn và kìa hãy xem, trí tuệ đâu còn xoay quanh thực tại nữa, và trái đất của thế giới kinh nghiệm bắt đầu xoay quanh mặt trời trí tuệ. Hay nói một cách ít thi vị hơn: Kant không còn nhìn vào thực tại rồi đặt câu hỏi làm sao trí tuệ có thể phản ánh nó một cách trung thực nhất. Thay vào đó, ông hướng tới trí tuệ và đặt câu hỏi phải hình dung như thế nào về tri thức tiên nghiệm, tức tri thức có trước mọi thứ kinh nghiệm. Xuất phát từ đây ông đạt tới một cấu trúc hoàn toàn mới của các bình diện logich: Trí tuệ không còn thuộc về thế giới kinh nghiệm mà nó nhận biết, chính trí tuệ đã kiến tạo thế giới thông qua phương thức mà nó hình dung ra thế giới; trí tuệ không phải là một bộ phận của thế giới mà là khởi thủy của nó; trí tuệ không mang tính kinh nghiệm, mà mang tính siêu việt; nó quy định cho thế giới kinh nghiệm phương thức tồn tại của thế giới đó. Những phạm trù mà nó sử dụng để quan sát thế giới - chẳng hạn tính nhân quả - không phải là một phần của thế giới, mà là một phần của ma trận tri thức. Nói cách khác: trí tuệ, cũng như một nhóm sự vật nhất định, chẳng thể thuộc về thế giới, ví dụ loài chó đâu phải là một thành tố hiện hữu; tự thân khái niệm loài chó không phải là một con chó có thực, con chó Bello (xét từ giác độ kinh nghiệm) và loài chó (xét từ giác độ siêu việt) nằm trên hai bình diện logich khác nhau.
Với bước ngoặt kiến tạo luận này, Kant đã trả lời câu hỏi làm sao trí tuệ có thể quy thế giới kinh nghiệm muôn màu muôn vẻ về một mối thống nhất. Trí tuệ không đi tìm tính thống nhất trong thế giới, mà cung cấp cho thế giới tính thống nhất của nó. Ta không thể biết gì về tự thân thế giới, cái mà Kant gọi là "vật tự nó"; tuy nhiên những gì mà ta có thể tri thức được, ta sẽ tri thức chúng một cách tất yếu, và chỉ thông qua sức mạnh tạo nên tính thống nhất của trí tuệ.
Với khái niệm "siêu việt" mà ông dùng như là đối lập của khái niệm "kinh nghiệm", Kant mô tả tất cả những gì không có quan hệ quy chiếu đối với thực tại, mà đối với điều kiện của nhận thức. Triết học của ông chính vì vậy là triết học siêu việt. Nó mang tính phê phán, bởi lẽ nó gắn liền khả năng có thể nhận biết được thế giới với các điều kiện của trí tuệ, và thông qua đó mà cũng giới hạn khả năng nhận biết này. Do vậy mà Kant đã đặt tên cho ba tác phẩm chính của mình là: Phê phán lí tính thuần tuý (trong đó bàn đến các điều kiện của tri thức), Phê phán lí tính thực tiễn (trong đó bàn đến đạo đức) và Phê phán khả năng đánh giá (trong đó bàn đến mĩ học và các mục tiêu tối thượng). Qua đó Kant đã trả lời ba câu hỏi lớn: Ta có thể biết gì? Ta cần phải làm gì? và Ta có thể hi vọng gì?
Đồng thời, công trình "Phê phán" của Kant cũng có thể coi như là sự phê phán trên phương diện tư tưởng hệ đối với trí tuệ của con người: Một khi tôi không biết đến các điều kiện về khả năng hình thành kinh nghiệm của mình, tôi sẽ có thiên hướng phóng chiếu chúng vào thực tại; bởi vì chẳng hạn từ "Gott" (Thượng đế) có âm vang gần giống từ "Brot" (Bánh mì) và cũng được sử dụng tương tự trên phương diện ngữ pháp, tôi sẽ cho rằng Thượng đế cũng là một thực thể hệt như một chiếc bánh mì đen, mặc dù không hề có một kinh nghiệm giác tính nào xác nhận điều này. Thực ra Kant không nói hoàn toàn như vậy, mà là nhà triết học ngôn ngữ Ludwig Wittgenstein, song Kant đã nghĩ đến một điều gì đó tương tự khi ông nói rằng: Không được đánh đồng các ý tưởng điều hành - tức là những chỉ dẫn để sử dụng trí tuệ - với các ý tưởng tạo dựng, bởi nếu không ta sẽ nhầm tưởng những bóng ma là có thực. Và như Wittgenstein sau này, Kant đã nhìn nhận công trình "Phê phán" của ông như là công cụ trị liệu đối với một trí tuệ chưa tự nhân chân ra bản chất siêu việt của mình, và do đó mà chưa tự tách biệt khỏi thế giới do nó kiến tạo nên.
Sau bước ngoặt Copernicus này ở Kant, không còn nhà triết học nào có thể hồn nhiên duy trì trạng thái "tiền phê phán" nữa. Ba tác phẩm "Phê phán" của Kant chứa đựng những những câu hỏi mà triết học của cả trăm năm sau sẽ còn tiếp tục triển khai. Đặc biệt khái niệm "vật tự nó" của ông, cái bất khả tri, toả vẻ hấp dẫn của một câu đố không thể nào tìm được lời giải đáp.
Kant đã làm đảo lộn quan niệm của chúng ta về nhận thức. Ngày nay hầu như chẳng còn một ai tin rằng tinh thần phản ánh thế giới. Trên thực tế mọi lí thuyết đáng tin cậy đều mang tính kiến tạo luận: Chúng ta kiến tạo ra thực tại. Ta chỉ có thể nhận biết được những gì phù hợp với mô hình kiến tạo này, chẳng hạn như thính giác của con người chỉ có khả năng thu nhận được một dải tần số âm thanh nhất định chứ không như loài chó còn có thể nghe được cả các siêu âm. Đồng thời từ sau Kant trở đi người ta có thể hình dung rằng ma trận tri thức tuy mang tính siêu việt, song lại cũng phụ thuộc vào những yếu tố khả biến. Những yếu tố này có thể được quy định bởi các điều kiện lịch sử, xã hội, phái tính, môi trường hay văn hoá, hoặc chúng cũng có thể được định hướng bởi những quyền lợi vô thức. Bất luận thế nào đi nữa thì những yếu tố đó cũng không được chúng ta ý thức đến, bởi chúng có trước mọi thứ kinh nghiệm. Đây là khởi điểm cho một bộ môn thi đấu mang tầm cỡ Olympic, môn thi đấu có nội dung tất cả hãy tình nghi tất cả. Bất cứ một ai cũng có thể phát hiện ở kẻ khác những căn nguyên cho thói thiển cận của người đó: Kẻ nọ là tên tư bản, y không thể suy nghĩ gì khác ngoài các khái niệm hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận; kẻ kia là một khuôn mẫu WASP điển hình (White Anglo-Saxon Protestant) [ [1] ], y không thể nào tư duy khác khác ngoài phạm vi các phạm trù duy lí của nền văn hoá Âu châu và chẳng hề coi việc này có điều gì bất thường. Bằng cách này, người ta có thể phạm tội một cách ngây thơ; con người quả có nhìn nhận thế giới một cách sai lệnh thật nhưng không thể ý thức về điều đó. Hai thế kỉ sau Kant là thời đại của thói đa nghi tư tưởng hệ. Tuy nhiên trước khi thời đại này có thể khởi đầu, Hegel còn phải là phẳng Kant bằng cỗ máy cán lịch sử của mình.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831)
Hegel kéo Kant đến bên bờ Jordan [ [2] ] và rửa tội cho ông bằng nguồn nước của lịch sử. Hay diễn đạt một cách khác: Ông thuật lại lịch sử thế giới như là một cuốn tiểu thuyết giáo dục. Sự tương đồng này được ứng dụng lần đầu trong tiểu thuyết: Cũng như Robinson Crusoe đã tái lập một lần nữa toàn bộ lịch sử văn minh trên hòn đảo của mình, từng cá nhân cũng sẽ phải lần lượt nghiệm trải toàn bộ lịch sử văn hoá.
Ở đây Hegel biến bước ngoặt Copernicus của Kant thành nguyên lí của tiến bộ lịch sử. Bước ngoặt này có nội dung gì? Ta hãy ôn lại: Tinh thần lúc khởi thủy chỉ quan sát thế giới và lãng quên chính nó (quan niệm tiền phê phán; chính đề). Tiếp theo đó, nó biến thành Immanuel Kant và xoay hướng nhìn vào bản thân nhằm tìm ra phần đóng góp của mình vào kết quả nhận thức (quan niệm phê phán; phản đề). Và rốt cuộc Kant đột biến thành nhà triết học Hegel với tư cách là người điều hành Tinh thần thế giới và nhận ra rằng mâu thuẫn ở trên chỉ là một bước quá độ nhất thời trong quá trình phát triển và với Hegel sẽ được nâng lên một tầm thống nhất cao hơn (sự thức nhận triết học lịch sử; hợp đề). Ban đầu Tinh thần xuất hiện với tư cách là Vật "tự nó" (Ý thức tiền phê phán), tiếp theo đó ý thức tự phát hiện ra chính mình và Tinh thần xuất hiện dưới hình thái "cho nó" (Tự ý thức, Kant). Và rốt cuộc nó xuất hiện trong sự tổng hợp triết học lịch sử "tự nó và cho nó" (tức chính là Hegel, người tạo ra khái niệm ngày nay đã trở thành thông dụng này).
Sự tổng hợp này có nghĩa rằng cả hai mặt của mâu thuẫn đã được "phủ định" trên ba phương diện: Chúng đồng thời bị bác bỏ, được bảo tồn và nâng lên một cấp độ mới. Nói cách khác: Chúng trở thành những "khoảng khắc" của một tương quan mới; chúng được tương đối hoá, ngữ cảnh hoá, giảm bớt độ căng và qua đó chuyển hoá thành kinh nghiệm. Kết quả tổng hợp này lại trở thành khởi điểm cho một quá trình mới, tương tự như sau một hiệp đấu quyền Anh cả hai địch thủ đều phải rời khỏi sàn đấu và nhà trọng tài giờ đây sẽ phải tham dự vòng đấu tiếp theo với một địch thủ mới.
Hegel gọi nguyên lí này là phép biện chứng và nâng nó lên thành quy luật phát triển của lịch sử thế giới. Sự vận động bao giờ cũng diễn ra từ Ý thức (ngây thơ) qua Tự ý thức (phê phán, Kant) đến Tri thức tuyệt đối (Hegel).
Điều này sẽ được thể hiện cụ thể ra sao dưới hình thức lịch sử?
Ý thức ngây thơ chẳng hạn đánh đồng nội tâm với ngoại giới và phóng chiếu sự giằng xé của mình vào thế giới, phân chia thế giới đó thành cõi thế và cõi bên kia: Đó là ý thức tôn giáo trung cổ. Tiếp theo đó, với tư cách là tự ý thức, nó mang hình thái lịch sử của trào lưu Khai sáng; đấy chính là phản đề duy lí đối với tinh thần tôn giáo trung cổ. Tuy nhiên bước tổng hợp chỉ có thể có được một khi lí trí ban hành các định luật cho mình ngay trong thế giới ngoại lai và tự thực hiện nó: Đây là trường hợp của ý thức đạo đức. Bước tổng hợp, hay hợp đề này lại trở thành một chính đề mới, lúc mà ý thức đạo đức với tư cách là "thói ngông cuồng tự kỉ" muốn cải tạo thế giới chỉ dựa theo cảm xúc. Đó là thời điểm mà Tinh thần thế giới mang tên Rousseau, đội lên đầu chiếc mũ đỏ của phái Jakobin và bắt đầu cuộc cách mạng Pháp.
Hệt như trong một tiểu thuyết giáo dục, Tinh thần thế giới trải qua những nhầm lẫn và ngày càng leo cao hơn trên chiếc thang nhận thức, cho tới thời điểm mà với Hegel nó đạt đến nấc thang tột đỉnh. Đấy chính là trạng thái của sự tự thông suốt tuyệt đối (Tự thức nhận). Ở đây Tinh thần tuyệt đối biến thành kí ức của chính nó. Lịch sử của tính đồng nhất và tính đồng nhất của lịch sử giờ đây ôm chầm lấy nhau trong một tinh thần hoà giải âu yếm.
Với dự thảo này Hegel đã gắn kết lịch sử và triết học dưới hình thức của một cuốn tiểu thuyết. Tiểu thuyết về phiá nó cũng trải qua một cuộc đảo lộn Copernicus à la Kant: Tương tự như cái Tôi siêu việt không còn là một phần của thế giới ngoại hiện nữa mà là khởi thủy của nó, nay cái Tôi trần thuật cũng rút lui khỏi thế giới tiểu thuyết nhằm để mô tả các diễn biến từ cái nhìn của nhân vật. Nhân vật tiểu thuyết thông qua việc nếm trải hàng loạt các biến cố khủng hoảng ngày sẽ càng mở rộng tầm nhìn của mình và rốt cuộc có được cái nhìn thấu thị về kinh lịch của bản thân và đạt tới mức hiểu biết của cái Tôi trần thuật. Tương tự như vậy, Hegel điều chỉnh góc trần thuật của mình sao cho phù hợp với tầm nhìn của từng thời đại một, xác định sự dị biệt giữa "Tinh thần thời đại", đầy hạn chế và những gì mà nó không thể bao quát nổi như một mâu thuẫn biện chứng, dẫn dắt Tinh thần thế giới trải qua một loạt những cuộc khủng hoảng biện chứng để đi đến sự thức nhận về lịch sử của nó, cho tới khi mà nó có thể đạt tới tầm hiểu biết vạn năng của chính Hegel.
Qua đó, Hegel biến con người thành các nhân vật tiểu thuyết. Con người giờ đây sắm một vai trò nhất định trong lịch sử thế giới và có thể tự thực hiện mình với tư cách là kẻ đỡ đầu của Tinh thần. Tuy nhiên cũng thật khốn nạn cho cho ai đó dám cưỡng lại sứ mạng của lịch sử: y sẽ bị bánh xe của nó nghiền nát không thương tiếc.
Với Hegel một tấn kịch mới đã được mở màn trong đời sống tư tưởng châu Âu, lịch sử từ nay về sau sẽ trở thành một mô hình hiện thực mang tính khuynh loát. Cuộc chạy đua dành quyền bình luận về lịch sử bắt đầu từ đây. Ai có được quyền uy bình luận lịch sử, kẻ đó sẽ là người chiến thắng, bởi lẽ qua đó y sẽ được trao sứ mệnh dành chính quyền và thúc đẩy lịch sử tiến lên theo tinh thần của mình. Quyền bình luận lịch sử ở một quy mô tối cao còn được gọi là hệ tư tưởng (khái niệm này lúc đầu nhằm chỉ một hệ ý thức hệ sai trái xuất phát từ những quyền lợi vô thức). Với Hegel thời đại của các hệ tư tưởng được biện giải trên phương diện lịch sử đã được khởi đầu.
Triết học Hegel đặc biệt phổ biến ở Đức và Nga, nơi mà trí thức hầu như không thu thập được những kinh nghiệm chính trị thực tiễn nào. Và bởi vì đánh đồng thực tại với tiểu thuyết, họ đã biến thành những kẻ Đông Kisốt. Đấy là lí do vì sao mà - so với các nước Tây Âu khác - ở nước Đức thế kỉ 19 hầu như chẳng xuất hiện một tác phẩm tiểu thuyết lớn nào. Người Đức đã có hẳn một pho tiểu thuyết của lịch sử. Tiểu thuyết gia lớn nhất là Hegel, và độc giả say sưa nhất của ông là Karl Marx.
Karl Marx (1818-1883)
Hegel có cả một đàn con, người thì thừa kế gia sản, kẻ lại đào mồ chôn cha mình. Karl Marx làm cả hai việc. Ông tiếp nhận toàn bộ mô hình của Hegel cùng với biện chứng pháp như là động cơ của lịch sử, nhưng "đặt ngược nó từ đầu xuống chân" như ông nói. Thực tại đối với Marx không phải tinh thần, mà là vật chất. Điều quyết định đối với một nền văn hoá là hình thái mà trong đó một xã hội bảo đảm cho sự sinh tồn vật chất của mình, có nghĩa là cơ cấu kinh tế của nó. Ở giai đoạn phong kiến mang đặc trưng nông nghiệp giới quý tộc giữ vai trò thống trị, trong chế độ tư bản được quy định bởi nền sản xuất công nghiệp giai cấp tư sản lại nắm giữ vai trò này. Mâu thuẫn biện chứng ở đây không phải là mâu thẫn giữa ý thức và tự ý thức, mà là giữa điều kiện sản xuất và quyền sử dụng bất bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, giữa lao động và quan hệ sở hữu. Mâu thuẫn này dẫn tới sự phân chia con người thành các giai cấp khác nhau, và như vậy động lực của lịch sử chính là đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên ở đây Marx đã quay trở lại lối lập luận của Hegel khi ông cho rằng có một mâu thuẫn tồn tại giữa ý thức tự phát và tự ý thức của một giai cấp. Tự ý thức đó được Marx gọi là ý thức giai cấp. Nó chính là bao tử cung mà trong đó ý chí cách mạng dần dần chín muồi. Xuất phát từ những tiền đề này, quá trình lịch sử hấp dẫn nhất đối với Marx chính là tấn kịch của cuộc Cách mạng Pháp. Nảy sinh từ các mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cuộc cách mạng này trở thành hình mẫu cho một viễn cảnh tương lai sẽ đến khi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản đẩy các xung đột giai cấp lên tới đỉnh điểm. Đó là thời điểm mà đám đông vô sản bị bần cùng hoá đối mặt với một thiểu số các nhà tư bản thông qua việc bóc lột công nhân đã giành về tay mình toàn bộ quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất. Sở dĩ phải gọi là bóc lột bởi vì nhà tư bản không trao lại cho người công nhân một giá trị tương ứng với thành quả lao động của người đó, mà chỉ trả một phần đảm bảo sinh hoạt tối thiểu và giữ lại cho mình phần lợi nhuận, hay còn gọi là giá trị thặng dư. Giai cấp tư sản có thể làm điều này một cách dễ dàng thông qua việc khuếch trương những tư tưởng lừa mị về cái gọi là "các quy luật khách quan của thị trường". Và bởi vì đồng tiền làm lẫn lộn ý thức về giá trị, giá cả hàng hoá hiện lên như là giá trị khách quan của nó. Trong thực tế nó chỉ là chiếc lá nho phủ lên các quan hệ sở hữu bất công. Nhiệm vụ đầu tiên của một nhà Mác-xit do vậy là phải đập tan các ảo giác tư tưởng hệ. Người ta có thể nhận dạng hệ tư tưởng căn cứ vào phương thức nhà tư bản rao bán các quyền lợi của giai cấp tư bản như là quyền lợi của toàn xã hội. Qua đó toàn bộ nền văn hoá tư sản đều trở nên đáng ngờ vực. Và như vậy chủ nghĩa Marx trở thành một thứ trường học cao cấp của nghệ thuật lột mặt nạ. Các hệ thống biểu tượng văn minh được vạch trần. Công việc này đã làm xuất hiện biết bao thế hệ của các nhà thám tử coi việc lột mặt nạ của Thượng đế và thế giới và chỉ mặt đặt tên những kẻ bóc lột trá hình là sự nghiệp chính của cuộc đời mình. Thái độ đa nghi tư tưởng hệ mang tính phổ quát cung cấp cho chủ nghĩa Mác cả một hệ thống miễn dịch, bởi bất cứ mỗi một địch thủ nào đều có thể được nó biến thành một trường hợp ứng dụng cho lí thuyết: Ai chống đối, đó là một kẻ thù giai cấp hoặc ít nhất là một kẻ bị mơ hồ về lập trường.
Chú thích
Kant là Copernicus của triết học. Ông đảo ngược hướng nhìn và kìa hãy xem, trí tuệ đâu còn xoay quanh thực tại nữa, và trái đất của thế giới kinh nghiệm bắt đầu xoay quanh mặt trời trí tuệ. Hay nói một cách ít thi vị hơn: Kant không còn nhìn vào thực tại rồi đặt câu hỏi làm sao trí tuệ có thể phản ánh nó một cách trung thực nhất. Thay vào đó, ông hướng tới trí tuệ và đặt câu hỏi phải hình dung như thế nào về tri thức tiên nghiệm, tức tri thức có trước mọi thứ kinh nghiệm. Xuất phát từ đây ông đạt tới một cấu trúc hoàn toàn mới của các bình diện logich: Trí tuệ không còn thuộc về thế giới kinh nghiệm mà nó nhận biết, chính trí tuệ đã kiến tạo thế giới thông qua phương thức mà nó hình dung ra thế giới; trí tuệ không phải là một bộ phận của thế giới mà là khởi thủy của nó; trí tuệ không mang tính kinh nghiệm, mà mang tính siêu việt; nó quy định cho thế giới kinh nghiệm phương thức tồn tại của thế giới đó. Những phạm trù mà nó sử dụng để quan sát thế giới - chẳng hạn tính nhân quả - không phải là một phần của thế giới, mà là một phần của ma trận tri thức. Nói cách khác: trí tuệ, cũng như một nhóm sự vật nhất định, chẳng thể thuộc về thế giới, ví dụ loài chó đâu phải là một thành tố hiện hữu; tự thân khái niệm loài chó không phải là một con chó có thực, con chó Bello (xét từ giác độ kinh nghiệm) và loài chó (xét từ giác độ siêu việt) nằm trên hai bình diện logich khác nhau.
Với bước ngoặt kiến tạo luận này, Kant đã trả lời câu hỏi làm sao trí tuệ có thể quy thế giới kinh nghiệm muôn màu muôn vẻ về một mối thống nhất. Trí tuệ không đi tìm tính thống nhất trong thế giới, mà cung cấp cho thế giới tính thống nhất của nó. Ta không thể biết gì về tự thân thế giới, cái mà Kant gọi là "vật tự nó"; tuy nhiên những gì mà ta có thể tri thức được, ta sẽ tri thức chúng một cách tất yếu, và chỉ thông qua sức mạnh tạo nên tính thống nhất của trí tuệ.
Với khái niệm "siêu việt" mà ông dùng như là đối lập của khái niệm "kinh nghiệm", Kant mô tả tất cả những gì không có quan hệ quy chiếu đối với thực tại, mà đối với điều kiện của nhận thức. Triết học của ông chính vì vậy là triết học siêu việt. Nó mang tính phê phán, bởi lẽ nó gắn liền khả năng có thể nhận biết được thế giới với các điều kiện của trí tuệ, và thông qua đó mà cũng giới hạn khả năng nhận biết này. Do vậy mà Kant đã đặt tên cho ba tác phẩm chính của mình là: Phê phán lí tính thuần tuý (trong đó bàn đến các điều kiện của tri thức), Phê phán lí tính thực tiễn (trong đó bàn đến đạo đức) và Phê phán khả năng đánh giá (trong đó bàn đến mĩ học và các mục tiêu tối thượng). Qua đó Kant đã trả lời ba câu hỏi lớn: Ta có thể biết gì? Ta cần phải làm gì? và Ta có thể hi vọng gì?
Đồng thời, công trình "Phê phán" của Kant cũng có thể coi như là sự phê phán trên phương diện tư tưởng hệ đối với trí tuệ của con người: Một khi tôi không biết đến các điều kiện về khả năng hình thành kinh nghiệm của mình, tôi sẽ có thiên hướng phóng chiếu chúng vào thực tại; bởi vì chẳng hạn từ "Gott" (Thượng đế) có âm vang gần giống từ "Brot" (Bánh mì) và cũng được sử dụng tương tự trên phương diện ngữ pháp, tôi sẽ cho rằng Thượng đế cũng là một thực thể hệt như một chiếc bánh mì đen, mặc dù không hề có một kinh nghiệm giác tính nào xác nhận điều này. Thực ra Kant không nói hoàn toàn như vậy, mà là nhà triết học ngôn ngữ Ludwig Wittgenstein, song Kant đã nghĩ đến một điều gì đó tương tự khi ông nói rằng: Không được đánh đồng các ý tưởng điều hành - tức là những chỉ dẫn để sử dụng trí tuệ - với các ý tưởng tạo dựng, bởi nếu không ta sẽ nhầm tưởng những bóng ma là có thực. Và như Wittgenstein sau này, Kant đã nhìn nhận công trình "Phê phán" của ông như là công cụ trị liệu đối với một trí tuệ chưa tự nhân chân ra bản chất siêu việt của mình, và do đó mà chưa tự tách biệt khỏi thế giới do nó kiến tạo nên.
Sau bước ngoặt Copernicus này ở Kant, không còn nhà triết học nào có thể hồn nhiên duy trì trạng thái "tiền phê phán" nữa. Ba tác phẩm "Phê phán" của Kant chứa đựng những những câu hỏi mà triết học của cả trăm năm sau sẽ còn tiếp tục triển khai. Đặc biệt khái niệm "vật tự nó" của ông, cái bất khả tri, toả vẻ hấp dẫn của một câu đố không thể nào tìm được lời giải đáp.
Kant đã làm đảo lộn quan niệm của chúng ta về nhận thức. Ngày nay hầu như chẳng còn một ai tin rằng tinh thần phản ánh thế giới. Trên thực tế mọi lí thuyết đáng tin cậy đều mang tính kiến tạo luận: Chúng ta kiến tạo ra thực tại. Ta chỉ có thể nhận biết được những gì phù hợp với mô hình kiến tạo này, chẳng hạn như thính giác của con người chỉ có khả năng thu nhận được một dải tần số âm thanh nhất định chứ không như loài chó còn có thể nghe được cả các siêu âm. Đồng thời từ sau Kant trở đi người ta có thể hình dung rằng ma trận tri thức tuy mang tính siêu việt, song lại cũng phụ thuộc vào những yếu tố khả biến. Những yếu tố này có thể được quy định bởi các điều kiện lịch sử, xã hội, phái tính, môi trường hay văn hoá, hoặc chúng cũng có thể được định hướng bởi những quyền lợi vô thức. Bất luận thế nào đi nữa thì những yếu tố đó cũng không được chúng ta ý thức đến, bởi chúng có trước mọi thứ kinh nghiệm. Đây là khởi điểm cho một bộ môn thi đấu mang tầm cỡ Olympic, môn thi đấu có nội dung tất cả hãy tình nghi tất cả. Bất cứ một ai cũng có thể phát hiện ở kẻ khác những căn nguyên cho thói thiển cận của người đó: Kẻ nọ là tên tư bản, y không thể suy nghĩ gì khác ngoài các khái niệm hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận; kẻ kia là một khuôn mẫu WASP điển hình (White Anglo-Saxon Protestant) [ [1] ], y không thể nào tư duy khác khác ngoài phạm vi các phạm trù duy lí của nền văn hoá Âu châu và chẳng hề coi việc này có điều gì bất thường. Bằng cách này, người ta có thể phạm tội một cách ngây thơ; con người quả có nhìn nhận thế giới một cách sai lệnh thật nhưng không thể ý thức về điều đó. Hai thế kỉ sau Kant là thời đại của thói đa nghi tư tưởng hệ. Tuy nhiên trước khi thời đại này có thể khởi đầu, Hegel còn phải là phẳng Kant bằng cỗ máy cán lịch sử của mình.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831)
Hegel kéo Kant đến bên bờ Jordan [ [2] ] và rửa tội cho ông bằng nguồn nước của lịch sử. Hay diễn đạt một cách khác: Ông thuật lại lịch sử thế giới như là một cuốn tiểu thuyết giáo dục. Sự tương đồng này được ứng dụng lần đầu trong tiểu thuyết: Cũng như Robinson Crusoe đã tái lập một lần nữa toàn bộ lịch sử văn minh trên hòn đảo của mình, từng cá nhân cũng sẽ phải lần lượt nghiệm trải toàn bộ lịch sử văn hoá.
Ở đây Hegel biến bước ngoặt Copernicus của Kant thành nguyên lí của tiến bộ lịch sử. Bước ngoặt này có nội dung gì? Ta hãy ôn lại: Tinh thần lúc khởi thủy chỉ quan sát thế giới và lãng quên chính nó (quan niệm tiền phê phán; chính đề). Tiếp theo đó, nó biến thành Immanuel Kant và xoay hướng nhìn vào bản thân nhằm tìm ra phần đóng góp của mình vào kết quả nhận thức (quan niệm phê phán; phản đề). Và rốt cuộc Kant đột biến thành nhà triết học Hegel với tư cách là người điều hành Tinh thần thế giới và nhận ra rằng mâu thuẫn ở trên chỉ là một bước quá độ nhất thời trong quá trình phát triển và với Hegel sẽ được nâng lên một tầm thống nhất cao hơn (sự thức nhận triết học lịch sử; hợp đề). Ban đầu Tinh thần xuất hiện với tư cách là Vật "tự nó" (Ý thức tiền phê phán), tiếp theo đó ý thức tự phát hiện ra chính mình và Tinh thần xuất hiện dưới hình thái "cho nó" (Tự ý thức, Kant). Và rốt cuộc nó xuất hiện trong sự tổng hợp triết học lịch sử "tự nó và cho nó" (tức chính là Hegel, người tạo ra khái niệm ngày nay đã trở thành thông dụng này).
Sự tổng hợp này có nghĩa rằng cả hai mặt của mâu thuẫn đã được "phủ định" trên ba phương diện: Chúng đồng thời bị bác bỏ, được bảo tồn và nâng lên một cấp độ mới. Nói cách khác: Chúng trở thành những "khoảng khắc" của một tương quan mới; chúng được tương đối hoá, ngữ cảnh hoá, giảm bớt độ căng và qua đó chuyển hoá thành kinh nghiệm. Kết quả tổng hợp này lại trở thành khởi điểm cho một quá trình mới, tương tự như sau một hiệp đấu quyền Anh cả hai địch thủ đều phải rời khỏi sàn đấu và nhà trọng tài giờ đây sẽ phải tham dự vòng đấu tiếp theo với một địch thủ mới.
Hegel gọi nguyên lí này là phép biện chứng và nâng nó lên thành quy luật phát triển của lịch sử thế giới. Sự vận động bao giờ cũng diễn ra từ Ý thức (ngây thơ) qua Tự ý thức (phê phán, Kant) đến Tri thức tuyệt đối (Hegel).
Điều này sẽ được thể hiện cụ thể ra sao dưới hình thức lịch sử?
Ý thức ngây thơ chẳng hạn đánh đồng nội tâm với ngoại giới và phóng chiếu sự giằng xé của mình vào thế giới, phân chia thế giới đó thành cõi thế và cõi bên kia: Đó là ý thức tôn giáo trung cổ. Tiếp theo đó, với tư cách là tự ý thức, nó mang hình thái lịch sử của trào lưu Khai sáng; đấy chính là phản đề duy lí đối với tinh thần tôn giáo trung cổ. Tuy nhiên bước tổng hợp chỉ có thể có được một khi lí trí ban hành các định luật cho mình ngay trong thế giới ngoại lai và tự thực hiện nó: Đây là trường hợp của ý thức đạo đức. Bước tổng hợp, hay hợp đề này lại trở thành một chính đề mới, lúc mà ý thức đạo đức với tư cách là "thói ngông cuồng tự kỉ" muốn cải tạo thế giới chỉ dựa theo cảm xúc. Đó là thời điểm mà Tinh thần thế giới mang tên Rousseau, đội lên đầu chiếc mũ đỏ của phái Jakobin và bắt đầu cuộc cách mạng Pháp.
Hệt như trong một tiểu thuyết giáo dục, Tinh thần thế giới trải qua những nhầm lẫn và ngày càng leo cao hơn trên chiếc thang nhận thức, cho tới thời điểm mà với Hegel nó đạt đến nấc thang tột đỉnh. Đấy chính là trạng thái của sự tự thông suốt tuyệt đối (Tự thức nhận). Ở đây Tinh thần tuyệt đối biến thành kí ức của chính nó. Lịch sử của tính đồng nhất và tính đồng nhất của lịch sử giờ đây ôm chầm lấy nhau trong một tinh thần hoà giải âu yếm.
Với dự thảo này Hegel đã gắn kết lịch sử và triết học dưới hình thức của một cuốn tiểu thuyết. Tiểu thuyết về phiá nó cũng trải qua một cuộc đảo lộn Copernicus à la Kant: Tương tự như cái Tôi siêu việt không còn là một phần của thế giới ngoại hiện nữa mà là khởi thủy của nó, nay cái Tôi trần thuật cũng rút lui khỏi thế giới tiểu thuyết nhằm để mô tả các diễn biến từ cái nhìn của nhân vật. Nhân vật tiểu thuyết thông qua việc nếm trải hàng loạt các biến cố khủng hoảng ngày sẽ càng mở rộng tầm nhìn của mình và rốt cuộc có được cái nhìn thấu thị về kinh lịch của bản thân và đạt tới mức hiểu biết của cái Tôi trần thuật. Tương tự như vậy, Hegel điều chỉnh góc trần thuật của mình sao cho phù hợp với tầm nhìn của từng thời đại một, xác định sự dị biệt giữa "Tinh thần thời đại", đầy hạn chế và những gì mà nó không thể bao quát nổi như một mâu thuẫn biện chứng, dẫn dắt Tinh thần thế giới trải qua một loạt những cuộc khủng hoảng biện chứng để đi đến sự thức nhận về lịch sử của nó, cho tới khi mà nó có thể đạt tới tầm hiểu biết vạn năng của chính Hegel.
Qua đó, Hegel biến con người thành các nhân vật tiểu thuyết. Con người giờ đây sắm một vai trò nhất định trong lịch sử thế giới và có thể tự thực hiện mình với tư cách là kẻ đỡ đầu của Tinh thần. Tuy nhiên cũng thật khốn nạn cho cho ai đó dám cưỡng lại sứ mạng của lịch sử: y sẽ bị bánh xe của nó nghiền nát không thương tiếc.
Với Hegel một tấn kịch mới đã được mở màn trong đời sống tư tưởng châu Âu, lịch sử từ nay về sau sẽ trở thành một mô hình hiện thực mang tính khuynh loát. Cuộc chạy đua dành quyền bình luận về lịch sử bắt đầu từ đây. Ai có được quyền uy bình luận lịch sử, kẻ đó sẽ là người chiến thắng, bởi lẽ qua đó y sẽ được trao sứ mệnh dành chính quyền và thúc đẩy lịch sử tiến lên theo tinh thần của mình. Quyền bình luận lịch sử ở một quy mô tối cao còn được gọi là hệ tư tưởng (khái niệm này lúc đầu nhằm chỉ một hệ ý thức hệ sai trái xuất phát từ những quyền lợi vô thức). Với Hegel thời đại của các hệ tư tưởng được biện giải trên phương diện lịch sử đã được khởi đầu.
Triết học Hegel đặc biệt phổ biến ở Đức và Nga, nơi mà trí thức hầu như không thu thập được những kinh nghiệm chính trị thực tiễn nào. Và bởi vì đánh đồng thực tại với tiểu thuyết, họ đã biến thành những kẻ Đông Kisốt. Đấy là lí do vì sao mà - so với các nước Tây Âu khác - ở nước Đức thế kỉ 19 hầu như chẳng xuất hiện một tác phẩm tiểu thuyết lớn nào. Người Đức đã có hẳn một pho tiểu thuyết của lịch sử. Tiểu thuyết gia lớn nhất là Hegel, và độc giả say sưa nhất của ông là Karl Marx.
Karl Marx (1818-1883)
Hegel có cả một đàn con, người thì thừa kế gia sản, kẻ lại đào mồ chôn cha mình. Karl Marx làm cả hai việc. Ông tiếp nhận toàn bộ mô hình của Hegel cùng với biện chứng pháp như là động cơ của lịch sử, nhưng "đặt ngược nó từ đầu xuống chân" như ông nói. Thực tại đối với Marx không phải tinh thần, mà là vật chất. Điều quyết định đối với một nền văn hoá là hình thái mà trong đó một xã hội bảo đảm cho sự sinh tồn vật chất của mình, có nghĩa là cơ cấu kinh tế của nó. Ở giai đoạn phong kiến mang đặc trưng nông nghiệp giới quý tộc giữ vai trò thống trị, trong chế độ tư bản được quy định bởi nền sản xuất công nghiệp giai cấp tư sản lại nắm giữ vai trò này. Mâu thuẫn biện chứng ở đây không phải là mâu thẫn giữa ý thức và tự ý thức, mà là giữa điều kiện sản xuất và quyền sử dụng bất bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, giữa lao động và quan hệ sở hữu. Mâu thuẫn này dẫn tới sự phân chia con người thành các giai cấp khác nhau, và như vậy động lực của lịch sử chính là đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên ở đây Marx đã quay trở lại lối lập luận của Hegel khi ông cho rằng có một mâu thuẫn tồn tại giữa ý thức tự phát và tự ý thức của một giai cấp. Tự ý thức đó được Marx gọi là ý thức giai cấp. Nó chính là bao tử cung mà trong đó ý chí cách mạng dần dần chín muồi. Xuất phát từ những tiền đề này, quá trình lịch sử hấp dẫn nhất đối với Marx chính là tấn kịch của cuộc Cách mạng Pháp. Nảy sinh từ các mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cuộc cách mạng này trở thành hình mẫu cho một viễn cảnh tương lai sẽ đến khi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản đẩy các xung đột giai cấp lên tới đỉnh điểm. Đó là thời điểm mà đám đông vô sản bị bần cùng hoá đối mặt với một thiểu số các nhà tư bản thông qua việc bóc lột công nhân đã giành về tay mình toàn bộ quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất. Sở dĩ phải gọi là bóc lột bởi vì nhà tư bản không trao lại cho người công nhân một giá trị tương ứng với thành quả lao động của người đó, mà chỉ trả một phần đảm bảo sinh hoạt tối thiểu và giữ lại cho mình phần lợi nhuận, hay còn gọi là giá trị thặng dư. Giai cấp tư sản có thể làm điều này một cách dễ dàng thông qua việc khuếch trương những tư tưởng lừa mị về cái gọi là "các quy luật khách quan của thị trường". Và bởi vì đồng tiền làm lẫn lộn ý thức về giá trị, giá cả hàng hoá hiện lên như là giá trị khách quan của nó. Trong thực tế nó chỉ là chiếc lá nho phủ lên các quan hệ sở hữu bất công. Nhiệm vụ đầu tiên của một nhà Mác-xit do vậy là phải đập tan các ảo giác tư tưởng hệ. Người ta có thể nhận dạng hệ tư tưởng căn cứ vào phương thức nhà tư bản rao bán các quyền lợi của giai cấp tư bản như là quyền lợi của toàn xã hội. Qua đó toàn bộ nền văn hoá tư sản đều trở nên đáng ngờ vực. Và như vậy chủ nghĩa Marx trở thành một thứ trường học cao cấp của nghệ thuật lột mặt nạ. Các hệ thống biểu tượng văn minh được vạch trần. Công việc này đã làm xuất hiện biết bao thế hệ của các nhà thám tử coi việc lột mặt nạ của Thượng đế và thế giới và chỉ mặt đặt tên những kẻ bóc lột trá hình là sự nghiệp chính của cuộc đời mình. Thái độ đa nghi tư tưởng hệ mang tính phổ quát cung cấp cho chủ nghĩa Mác cả một hệ thống miễn dịch, bởi bất cứ mỗi một địch thủ nào đều có thể được nó biến thành một trường hợp ứng dụng cho lí thuyết: Ai chống đối, đó là một kẻ thù giai cấp hoặc ít nhất là một kẻ bị mơ hồ về lập trường.
Chú thích
[1]Tiếng Anh trong nguyên bản: Người da trắng, gốc Ănglô-Xắc xông và theo Đạo Tin lành
[2]Tên một dòng sông chảy qua Israel và Jordani, trong Kinh Thánh là biểu tượng cho nơi khởi đầu của Miền đất hứa
[2]Tên một dòng sông chảy qua Israel và Jordani, trong Kinh Thánh là biểu tượng cho nơi khởi đầu của Miền đất hứa
Nguồn: Dietrich Schwanitz, Bildung - Alles, was man wissen muß, Wilhelm Goldmann Verlag, München 2002, S. 430 - 436
http://www.vanhoanghean.com.vn
Nhãn:
Tác giả kinh điển
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)