19 tháng 6, 2013

VẤN ĐỀ XÃ HỘI: ĐI TÌM ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI

Ngô Văn Huấn
Bắt đầu từ những nghiên cứu…
Một vài quan điểm lý thuyết trên thế giới…
Vấn đề xã hội, chính là nguồn gốc và động lực cho sự ra đời của xã hội học ở phương Tây và những nghiên cứu thực nghiệm mang tính xã hội học đầu tiên cũng là về một số vấn đề xã hội. Vào khoảng thế kỷ XVIII-XIX Chủ nghĩa tư bản sau một thời gian phát triển đã bộc lộc nhiều rạn nứt trong hệ thống tổ chức, gây nên những bất cập trong đời sống dân sinh. Đứng trước những thách thức đó của thực tại xã hội, tri thức hiện thời của các khoa học không tìm ra căn nguyên và những lý giải sắc đáng. Kế thừa một tài sản tư tưởng to lớn từ khoa học tự nhiên và triết học, xã hội học mới bắt đầu được định hình và xây dựng mà công việc đầu tiên đó là tìm những luận giải về các vấn đề trong xã hội đương thời. Và từ đó đến nay chủ đề này chưa bao giờ bị bỏ lại trong tiến trình phát triển của khoa học này. Những thành tựu của xã hội học đạt được, có một số lượng lớn các công trình nghiên cứu về nhiều vấn đề xã hội ở nhiều cộng đồng trên thế giới.
Emile Durkhiem là một trong những nhà xã hội học đầu tiên, có công lao to lớn trong việc minh định đối tượng nghiên cứu của khoa học này theo nghĩa trọn vẹn như ngày nay. Có thể khẳng định rằng một trong những công trình xã hội học đầu tiên là nghiên cứu về hiện tượng tự tử (tự vẫn). Bằng việc thống kê khảo sát về các vụ tự tử ở châu Âu trong một thời gian dài, Durkhiem đã tìm ra mối liên hệ giữa hiện tượng này với các yếu tố xã hội khác như giới tính, tuổi, nghề nghiệp, tôn giáo, thu nhập… qua đó ông đã đưa ra một cách lý giải vô cùng mới mẻ lúc bấy giờ. Lý giải đó là sự khẳng định tự tử là hiện tượng mang tính xã hội, liên quan đến tính cố kết và sự liên đới của cá nhân với nhóm và cộng đồng. Điều đó cũng chính là một sự tuyên bố tự tử là một “vấn đề xã hội”, một hiện tương bình thường của xã hội. Như vậy, những vấn đề xã hội châu Âu thế kỷ XVIII-XIX chính là động lực thực tiễn đầu tiên cho sự ra đời xã hội học.
Với nỗ lực tổng hợp, hệ thống hóa các quan đểm, lý thuyết nghiên cứu về các vấn đề xã hội trong cộng đồng xã hội học Mỹ, hai tác giả Earl Rubington, Martin S.Weinberg viết cuốn sách The Study of Social Problems: Seven Perspectives”, Oxford University Press, 1995. Các tác giả của cuốn sách đã giới thiệu về những đóng góp, những phê phán xung quanh bảy lý thuyết: bệnh học xã hội, phá vỡ tổ chức xã hội, xung đột giá trị, hành vi lệch lạc, dán nhãn, phê phán và kiến tạo xã hội; được giới khoa học sử dụng để nghiên cứu về các vấn đề xã hội. Với mỗi lý thuyết các tác giả sẽ cung cấp một bản tóm tắt về quan điểm – những nét đặc trưng liên quan đến định nghĩa, nguyên nhân, điều kiện, hậu quả và giải pháp cho các vấn đề xã hội” [1]. Ngoài ra cuốn sách cũng dành một phân tích khả năng áp dụng của các lý thuyết đối với một số loại vấn đề xã hội cụ thể, đồng thời hướng tới sự hài hòa của quan điểm quyết định luận xã hội (Bệnh học xã hội, Phá tổ chức xã hội, Phê phán) và quan điểm đề cao nhân tố con người (Xung đột giá trị, Hành vi lệch chuẩn, Dán nhãn) đó cũng là  song đề mà xã hội học Mỹ đương đại hướng đến.
Trong cuốn “Understanding social prolems”(2011) các tác giả Linda A. Mooney, David, Knox và Caroline Schacht thuộc trương đại học East Carolina University đã có những nghiên cứu về các vấn đề xã hội ở Mỹ và toàn cầu. Trong đó chia các vấn đề xã hội thành ba nhóm như sau. Nhóm 1-các vấn đề thuộc về sức khỏe (bệnh tật và chăm sóc sức khỏe, rượu và các chất gây nghiện, tội phạm và kiểm soát xã hội, gia đình); nhóm 2- vấn đề của sự bất bình đẳng (Đói nghèo và sự bất bình đẳng kinh tế, việc làm và thất nghiệp, bất bình đẳng giáo dục, bất bình đẳng chủng tộc, sắc tộc  di trú, bất bình đẳng giới, khuynh hướng tình dục và đấu tranh cho bình đẳng); nhóm 3- các vấn đề của toàn cầu hóa (tăng dân số và đô thị hóa, ô nhiễm môi trường, khoa học và công nghệ, xung đột- chiến tranh và chủ nghĩa khủng bố). Với cách phân loại này cho ta thấy được hệ thống các nhóm vấn đề theo tính chất và cấp độ quốc gia, toàn cầu. Trong đó tác giả đã vận dụng ba cách tiếp cận cơ bản cấu trúc-chức năng, xung đột và tương tác biểu trưng trong xã hội học để lý giải từng vấn đề xã hội cụ thể.

Trong cuốn sách “Social Problems: Continuity and Change” của Steven E. Barkan, cựu chủ tịch của Hiệp hội Nghiên cứu các vấn đề hội giáo sư xã hội học tại Đại học Maine. Trong đó ông đã nêu ra các vấn đề của thế giới và nước Mỹ như: tội phạm, chiến tranh và chủ nghĩa khủng bố, nghèo đói, dân số, gia đình, đô thị hóa nông thôn,… Không chỉ trình bày lý luận cơ bản về các vấn đề xã hội, tác giả đã dựa trên các dữ liệu thực nghiệm đề mô tả, lý giải căn nguyên của các vấn đề đó trong khuôn khổ tư duy một nhà khoa học.

Vấn đề xã hội trong những nghiên cứu xã hội học ở  “Ta” ra sao?
Khái niệm vấn đề xã hội thường được hiểu trùng lặp hoặc lẫn lộn với khái niệm tệ nạn xã hội, hay xếp chung các vấn đề mà chúng ta quan niệm như hiện nay là vấn đề xã hội. Nhìn chung có hai cách quan niệm cơ bản như sau. Một là, xem tệ nạn xã hội và vấn đề xã hội là như nhau, điều này có nghĩa vấn đề xã hội được nhìn hạn hẹp trong các tệ nạn. Hai là, quan niệm tệ nạn xã hội là một dạng hay một số biểu hiện của vấn đề xã hội, vì thế nó hẹp hơn vấn đề xã hội.
Trong một chuyên đề do tập thể tác giả Nguyễn Y Na, Nguyễn Đức Anh, Nguyễn Như Diện, Hà Ngân Dung, Trần Hoàng Hoa, Ngô Thế Phúc, Nguyễn Chí Tình thuộc Viên Thông tin Khoa học xã hội có tên “Tệ nạn xã hội căn nguyên-biểu hiện-phương thức khắc phục”, năm 1996. Trước khi giới thiệu một số các nghiên cứu về các tệ nạn xã hội trên thế giới, các tác giả đã có một phần tổng quan để thể hiện quan điểm, phân loại và cái nhìn về các tệ nạn xã hội. Theo đó nhóm tác giả đã đưa ra một số phân loại những vấn đề xã hội đang còn tính thời sự hiện nay ở trên thế giới và Việt Nam mà trong đó họ gọi là các tệ nạn xã hội như: 1- xâm hại tài sản nhân dân; 2-làm ăn bất lương (làm hàng giả, buôn lậu); 3- bạo lực và tội ác (bạo lực đối với phụ nữ, thanh thiếu niên…); 4- các hoạt động mafia; 5- cờ bạc; 6-Tệ nạn mại dâm; 7-nghiện hút và tiêm chích ma túy; 8- vấn đề bệnh IHV/AIDS.
Trong cuốn sách “Những vấn đề kinh tế -xã hội và môi trường vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững” do tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2003, trong đó các tác giả đã đề cập đến các vấn đề xã hội tại các khu vực vùng ven ở các đô thị lớn ở nước ta. Cuốc sách là kết quả đề tài thực hiện nghiên cứu đánh giá vùng tại 5 thành phố bao gồm: Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Biên Hòa. Phương pháp của đề tài sử dụng là nghiên cứu đánh giá tác động môi trường  (EIA), đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia, điều tra xã hội học bằng bảng hỏi, phỏng vấn chuyên gia và phân tích dữ liệu. Bên cạnh việc phân tích tác động của các đô thị vùng ven đến các đô thị lớn ở Việt Nam, tác giả cũng nêu lên những vấn đề xã hội và môi trường đang tồn tại trong đô thị. Theo đó các tác giả phân tích các vấn đề như: nhà ở, thất nghiệp, phân cách giàu nghèo, nghèo đói, di cư, tệ nạn xã hội (tội phạm kinh tế, hình sự, dân sự, nghiện ma túy, mại dâm, trẻ em lang thang đường phố). Như vậy trong trường hợp này tác giả xem mại dâm, trẻ em lang thang đường phố, tội phạm, ma túy là những vấn đề xã hội trong khi đó vấn đề môi trường lại được phân tích như một vấn đề riêng. Sở dĩ như vậy là vì phụ thuộc vào dụng ý tác giả và mục tiêu của đề tài, nhưng qua đó chúng ta cũng có thể nhận ra được bức tranh về xã hội đô thị trong quá tiến trình nền kinh tế thị trường.
Năm 1997 cuốn sách “An sinh xã hội và các vấn đề xã hội” do cố tác giả Nguyễn Thị Oanh chủ biên được xem là giáo trình giảng dạy trong Trường đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó bao gồm hai phần là an sinh xã hội và các vấn đề xã hội được trình bày một cách ngắn gọn súc tích nhưng có tính khái quát cao. Bên cạnh việc giới thiệu lý thuyết, tác giả cũng dẫn chứng những dữ liệu thực nghiệm để chứng minh cho nhận định. Khi trình bày về các vấn đề xã hội, tác giả đã đưa ra những vấn đề mà hiện nay vẫn đang còn nguyên tính thời sự như ma túy, mại dâm, tội phạm, HIV… Tuy nhiên, đây là dạng tài liệu căn bản mang tính giới thiệu về mặt lý thuyết và phục vụ cho công tác giảng dạy nên tính bàn luận vẫn còn bỏ ngỏ.
Bằng việc tuyển chọn những báo cáo khoa học được trình bày, trong hơn mười năm làm xã hội học, năm 1997 GS Tương Lai xuất bản cuốn sách “Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Không chỉ là những khái niệm, lý thuyết mang tính lý luận, tác giả đã lồng ghép và vận dụng kết quả các điều tra thực nghiệm vào lý giải những vấn đề của thực tiễn xã hội đất nước trong thời gian qua dưới lăng kính xã hội học. Trong đó tác giả cũng đề cập đến những vấn đề xã hội như là một phần của sự biến đổi xã hội như: phân tầng và bất bình đẳng xã hội, nhà ở và môi trường sống đô thị, người nghèo, dân số, gia đình, người cao tuổi, biến đổi văn hóa và khoa học. Đó là những vấn đề xã hội gắn với quá trình đổi mới ở nước ta hơn 10 năm qua đã khởi tạo và biểu hiện nên quá trình biến đổi xã hội được tác giả tổng hợp và trình bày trên cơ sở nhiều cuộc điều tra xã hội học thực nghiệm có giá trị cao.
Diễn đàn phát triển Việt Nam đã tổ chức các cuộc hội thảo công bố các công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của các vấn đề xã hội Việt Nam. Một phần của nó đã được xuất bản tập 1 năm 2005 do hai tác giả Giang Thanh Long và Dương Kim Hồng chủ biên với tiêu đề “Các vấn đề xã hội trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế ở Việt Nam”. Các bài viết trong cuốn sách đã sử dụng các bộ dữ liệu của nhiều cuộc điều tra quốc gia và các cuộc nghiên cứu ở các phạm vi khác nhau. Qua đó phân tích về các vấn đề đang đặt ra trong xã hội hiện nay ở nước ta như: trẻ em đường phố, HIV/AIDS, lao động và việc làm của thanh niên, giáo dục, bất bình đẳng thu nhập, người cao tuổi. Với nguồn dữ liệu phong phú cộng với cách tiếp cận khác nhau đã cung cấp cho độc giả nhiều bức tranh và cách lý giải về những vấn đề xã hội cụ thể rất hữu ích cho đề tài đang thực hiện. Tuy nhiên, khía cạnh về sự cảm nhận của những người đang trải nghiệm thực tế đối với các vấn đề xã hội vẫn chưa được phản ánh và quan tâm trong những phân tích các tác giả đưa ra.
Trên trang điện tử của Viện Xã hội học có tiến hành một khảo sát trực tuyến nhằm thu thập ý kiến người đọc về các vấn đề xã hội ở nước ta. Theo đó những vấn đề xã hội được đưa ra để khảo sát đánh giá người trả lời bao gồm: Lạm phát, Thất nghiệp; Bất bình đẳng xã hội; Chất lượng giáo dục; Thiên tai, biến đổi khí hậu; Tham nhũng, buôn lậu;  Ách tắc giao thông; Vệ sinh thực phẩm, môi trường; Chất lượng khám chữa bệnh; Dịch bệnh và Vấn đề khác. Kết quả của khảo sát này cũng thay đổi theo các năm, phần nào phản ánh tính cấp thiết cũng như cảm nhận về tính nghiêm trọng của vấn đề.
Trong những năm qua, các chương nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn về về thành phố và tại thành phố Hồ Chí Minh đã được thực hiện với sự đa dạng của loại hình và cách tiếp cận. Bên cạnh những chủ đề về lịch sử, pháp luật, tâm lý, kinh tế, lý luận chính trị thì những nghiên cứu xã hội học, hay sử dụng cách tiếp cận xã hội học về các vấn đề xã hội đã để lại nhiều kết quả có ý nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách thành phố.
Từ năm 1999-2000, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thực hiện đề tài cấp bộ “Một số vấn đề cơ bản của thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa”. Một phần kết quả của đề tài đã được tác giả Nguyễn Công Bình trình bày với tên gọi “Một số vấn đề xã hội của thành phố Hồ Chí Minh trong công nghiệp hóa hiện đại hóa” và in trong cuốn sách “Đời sống xã hội vùng Nam bộ”  của ông, nhà xuất bản đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008. Trên cơ sở nhận định và chứng minh, Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất nước, là trung tâm về nhiều mặt của vùng, vì vậy nó có đặc trưng là tính năng động xã rất cao. Từ đó tác giả phân tích các vấn đề xã hội của thành phố trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như: phân tầng xã hội, cơ cấu xã hội và vị thế các giai tầng, vấn đề nghèo đói và công bằng xã hội. Số liệu được tác giả sử dụng trong báo cáo này là số liệu của Cục Thống kê địa phương, đồng thời sánh với dữ liệu đề tài về phân tầng xã hội năm 1995 của Viện xã hội học. Như vậy, đứng trên một cách tiếp cận tương đối phổ quát tác giả cũng phân tích vấn đề xã hội mang tính chất tổng quát như cơ cấu xã hội và phân tầng, qua đó cho chúng ta thấy một bức tranh xã hội khá rộng lớn.
Trong chương trình “Điều tra bổ sung, tổng kết thực hiện tình hình kinh tế-xã hội và đề xuất giải pháp phát triển hơn nữa vùng kinh tế trọng điểm phía nam” do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện. Trong chuyên đề “Các vấn đề xã hội của vùng kinh tế  trọng điểm phía Nam” do GS Tô Duy Hợp thực hiện đã phân tích những vấn đề rất cơ bản cả trong phương pháp luận, lý thuyết và kết quả thực nghiệm về nghiên cứu các vấn đề xã hội trong xã hội học. Theo đó báo cáo này tập trung vào bốn nội dung rất phổ quát bao gồm: 1 - Khái niệm và quan điểm lý thuyết về các vấn đề xã hội. 2 - Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề xã hội của vùng KT trọng điểm phía Nam. 3 - Một số kết quả điều tra bổ sung về các vấn đề xã hội của vùng KT trọng điểm phía Nam. 4 -  Về các giải pháp cơ bản nhằm giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc góp phần phát triển hơn nữa vùng KT trọng điểm phía Nam. Trong phần phân tích các kết quả điều tra về các vấn đề xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, tác giả đã sử dụng dữ liệu “điều tra đợt I và nhận xét đánh giá sơ bộ" do hai nhà khoa học TS Nguyễn Tuấn Triết và TS Phú Văn Hẳn thực hiện tại 9 tỉnh (mỗi tỉnh một cáo cáo riêng) về 7 vấn đề xã hội bao gồm: (1) vấn đề lao động và việc làm; (2) vấn đề đời sống dân cư; (3) vấn đề dân tộc và tôn giáo; (4) vấn đề tệ nạn xã hội; (5) vấn đề trẻ em; (6) vấn đề dân nhập cư và (7) vấn đề nhà ở và đô thị. Trong báo có về Thành phố Hồ Chí Minh tác giả tác giả Phí Văn Hẳn đã đề phân tích một số nhóm vấn đề xã hội đồng thời chứng minh bằng nhiều nguồn dữ liệu khác nhau.
1- Về chủ đề lao động và việc làm, có các vấn đề sau: tỉ trọng lao động trong các ngành thay đổi chậm, thất nghiệp, chênh lệch thu nhập, đội ngũ lao động hạn chế về tay nghề và trình độ;
2- Về chủ đề đời sống dân cư - các vấn đề nảy sinh : nghèo đói, chênh lệch giàu nghèo, người trong độ tuổi lao động không có tay nghề;
3- Về chủ đề dân tộc và tôn giáo: tử vi, đồ mã, xem bói, xin xăm, cúng, lên đồng...
4- Về vấn đề tệ nạn xã hội: mại dâm, ma tuý, bệnh AIDS, tham nhũng, buôn lậu, hoang phí, truỵ lạc, trộm cướp, cờ bạc...
5- Về chủ đề trẻ em: một bộ phận trẻ chưa đến tuổi phải lao động, trẻ em lang thang, phạm pháp
6- Về chủ đề di dân, những vấn đề nổi cộm: khó khăn trong quản lý, tội phạm,ô nhiễm môi trường sống, phức tạp trong văn hóa và lối sống,  quá tải các dịch vụ công..
7- Chủ đề nhà ở và đô thị có một số vấn đề sau: thiếu nhà ở, nhà trọ tạm bợ xây dựng bất hợp pháp, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, tác động xấu đến quy hoạch- quản lý đô thị và trật tự xã hội.
Đây là một báo cáo công phu trong việc tập hợp và phân tích dữ liệu, nhưng cách phân nhóm các vấn đề xã hội chồng chéo lên nhau (chủ đề đời sống dân cư, chủ đề di dân, chủ đề nhà ở đô thị…) trong khi đó thiếu các số liệu điều tra khảo sát độc lập bằng bảng hỏi để đo lường những đánh giá, cảm nhận của người dân nên chưa phản ánh hết các chiều cạnh của vấn đề trong thực tế trải nghiệm của người trong cuộc.
Trong khuôn khổ chương trình “Đối thoại chính sách” giữa các tổ chức quốc tế và chính phủ Việt Nam, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) phối hợp với Trung tâm Kinh doanh và nhà nước, thuộc đại học Harvard đã công bố tài liệu nghiên cứu “Thành phố Hồ Chí Minh những thách thức tăng trường” do các tác giả David Dapice, Jose A.Gomez-Ibanez và Nguyễn Xuân Thành thực hiên năm 2010. Tài liệu này tập trung vào hai thách thức chính mà TPHCM hiện đối mặt khi quản lý sự chuyển đổi nhanh chóng bối cảnh và cơ cấu dân cư đô thị: đó là tình trạng tắc nghẽn giao thông và sự phát triển những vùng đô thị mới, đông thời xem xét và tham vấn những biện pháp can thiệp để giải quyết vấn đề trên. Bằng việc phân tích các số liệu thống kê chính thức, các tác giả đã cho thấy vấn đề tắc nghẽn giao thông do tốc độ gia tăng số lượng xe máy là một thách thức to lớn và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Vấn đề quy hoạch các khu đô thị mới của thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhà ở và văn phòng đã dân đến những hệ lụy trong xung đột lợi ích, gay ảnh hưởng xấu đến anh ninh và trật tự xã hội, gây cản trở quy hoạch tổng thể và ô nhiễm môi trường. Trên cơ sở phân tích những yếu kém trong các giải pháp mà chính quyền đang thực thi, nhóm tác giả cũng đưa ra những gợi ý về mặt giải pháp và chính sách. Báo cáo phân tích này là một góc nhìn mang tính thực tiễn cao về các vấn đề xã hội (ách tắc giao thông, phát triển đô thị nóng), qua đó đề cập đến những giải pháp, một khía cạnh rất hữu ích trong cách tiếp cận của đề tài này.
Từ năm 2010 đến năm 2012, đề tài nghiên cứu khoa học về thành phố Hồ Chí Minh “Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi xã hội của cư dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” do tác giả Bùi Thế Cường chủ nhiệm dưới sự hợp tác của Sở Khoa học Công nghệ và Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ. Đề tài đã cung cấp một luận cứ khoa học có tính lý luận về đo lường phân tầng xã hội, trên cơ sỏ đó phân tích các dữ liệu thực nghiệm các nội dung như: những cơ cấu  xã hội, kinh tế và điều kiện sống, hoàn cảnh phúc lợi, lối sống, hiểu biết về biến đổi khí hậu, đánh giá về biến đổi  ã hội, sự thay đổi cuộc sống trong 10 nămqua, dự tính kế hoạch tương lai. Qua đó có những gợi ý về mặt chính sách cho các cơ quan chức năng trong quản lý xã hội. Đề tài khai thác sức mạnh của phương định lượng với công cụ bảng hỏi điều tra trên toàn thành phố với dung lượng mẫu là 1080 hộ phân bố trên khắp các khu vực với đặc trưng khác nhau của địa bàn nghiên cứu qua đó cho thấy tính đại diện ở mức cao.  Nghiên cứu này không dừng lại ở việc phác họa bức tranh về cơ cấu và phân tầng xã hội mang tính đặc trưng của thành phố, cũng như đánh giá của người dân về thực trạng phúc lợi xã hội và phản ánh những mô hình lối sống của cư dân mà còn khảo sát về nhận thức, đánh giá của người dân về biến đổi khí hậu, các vấn đề xã hội và nhận định về thay đổi cuộc sống  tương lai. Trong phần khảo sát về đánh giá về các vấn đề của thành phố, nhóm nghiên cứu đo lường các vấn đề như: khoảng cách giàu nghèo, suy thoái đạo đức xã hội, tệ nạn gia tăng, ô nhiễm môi trường, thất nghiệp. Kết quả của nghiên cứu này là một cơ sở quan trọng và là khung quy chiếu cho đề tài này, trong việc xác định chỉ báo thu thập dữ liệu.
Một nghiên cứu mới nhất về vấn đề xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá cao, là luận án tiến sỹ của Kimberly Kay Hoang có tên “Tính kinh tế của tình dục và chăn gối tại Việt Nam” đã được Hiệp hội Xã hội học Mỹ trao giải luận án hay nhất năm 2013. Nghiên cứu này được thực hiện trong vòng 15 tháng trong khoảng từ năm 2009 đến 2010 bằng phương pháp phỏng vấn sâu (54 phụ nữ mại dâm và 26 khách hàng), quan sát tham dự (tác giả đã trực tiếp làm việc tại các quán bar trong khoảng hơn một năm). Từ đó tác giả đã nêu lên những phát hiện chính sau: “1- hoạt động mại dâm tại đây được phân thành ba cấp (bậc thấp, bậc trung và bậc cao); 2- Người nước ngoài da trắng không phải là khách trả tiền nhiều nhất; 3- Không phải phụ nữ bán dâm nào cũng là người trong giới nghèo hèn; Phụ nữ bán dâm, tùy hoàn cảnh, đã biết khai thác tối đa tất cả tiềm năng có sẵn, từ trình độ văn hóa, tiền bạc, đến thể xác, để hành nghề; 4- Quan hệ giữa kẻ bán-người mua (dâm) là một sự hỗn hòa chuyện mây mưa với tiền và cả “tình”.[2]. Nghĩa là ngoài phần lao động thể xác (đổi sex lấy tiền) phụ nữ bán dâm ở Tp HCM còn có phần lao động tình cảm. Đây là một nghiên cứu không chỉ hữu ích về mặt nội dung với những phát hiện tính kinh tế trong hoạt động mại dâm ở Việt Nam một vấn đề lâu nay chúng ta xem nó như là một tệ nạn. Nhưng đóng góp quan trọng nhất chính là phương pháp và thái độ nghiên cứu rất nghiêm cẩn đã được thể hiện trong suốt quá trình nghiên cứu.
….chạm tới Khái niệm “Vấn đề xã hội”….
Vấn đề xã hội (Social Prolems) là một trong những khái niệm rất lỏng lẻo và được hiểu theo các chủ thuyết và hoàn cảnh khác nhau. Cách xác định như thế nào là một vấn đề xã hội phụ thuộc vào nhận thức chủ quan, không gian và thời điểm, điều này sẽ quy định việc cái gì được gọi là vấn đề xã hội (phân loại). Chính vì vậy, việc thống nhất các tiêu chí và minh định một ranh giới cho vấn đề xã hội là một công việc khó khăn.
Về mặt định nghĩa các tài liệu và tác giả khi nghiên cứu vẫn chưa có một thống nhất vấn đề xã hội, cũng như việc phân loại nó.
Trong cuốn “Từ điển tóm tắt thuật ngữ xã hội học” của Viện Thông tin khoa học xã hội thì khái niệm “vấn đề xã hội” được giải thích ở bốn nhóm vấn đề: 1- vấn đề xã hội của nông thôn; 2- vấn đề xã hội của nghệ thuật; 3- vấn đề xã hội của nhận thức; 4- vấn đề xã hội của thành thị. Trong đó vấn đề xã hội của thành thị được định nghĩa ở dạng phân tích như sau: “việc nghiên cứu một cách phù hợp rộng lớn những vấn đề xã hội liên quan tới đời sống của người dân thành thị: các khía cạnh của việc quy hoạch và mở mang các thành phố và khu vực nhà ở (tương quan giữa các khu vực nhà ở và sản xuất, cơ cấu và cách phân loại các địa điểm giao tiếp, các cơ quan phục vụ rộng rãi, việc tổ chức nghỉ ngơi hợp lý cho nhân dân thành phố,...) của việc tổ chức các cơ quan sinh hoạt văn hóa, các vấn đề tổ chức sinh hoạt và thời gian tự do của nhân dân thành phố, v.v…” [Viện thông tin khoa học xã hội. 1976: 61].
Từ điển Xã hội học (G.Endrweit và G. Trommsdorff chủ biên) trên cơ những phân tích những định nghĩa, theo đó vấn đề xã hội được quan niệm “những điều kiện và kết quả xã hội ảnh hưởng xấu đến các nhóm và các loại thành viên xã hội (thậm chí có thể là toàn bộ dân chúng) trong hoàn cảnh sống của họ, được công luận hay một bộ phận của công luận định nghĩa như là tất yếu phải thay đổi và được biến thành biện pháp chính trị” [G.Endrweit và G. Trommsdorff. 2002: 552]. Hay một cách khái quát hơn, nhà xã hội học Merton định nghĩa “: Bộ phận căn bản cấu thành đầu tiên và làm nền tảng của một vấn đề xã hội nằm trong sự khác biệt căn bản giữa chuẩn mực được chấp nhận về xã hội và những điều kiện xã hội đang tồn tại thực tế (1971)” [Dẫn lại G.Endrweit và G. Trommsdorff . 2002: 552-553].
Trong cuốn Understanding social prolems các tác tác giả sau khi biện luận đã cho rằng, vấn đề xã hội được xác định dựa trên các nhân tố chủ quan, khách quan và bối cảnh xã hội khác nhau, thì họ cũng đi đến một định nghĩa mang tính phổ quát. Theo đó "vấn đề xã hội là một tình trạng trong một giai đoạn xã hội cụ thể nó có hại cho đa số các thành viên và cần phải khắc phục” [Linda A. Mooney, David, Knox và Caroline Schacht. 2009: 3].
Theo tác giả Earl Rubington & Martin S. Weinberg rong cuốn The Study of Social Problems - Seven perspectives” định nghĩa về các vấn đề xã hội như sau:tình trạng mà những người quan trọng cho là nó không phù hợp với các giá trị mà họ cùng chia sẻ khiến họ nhất trí phải hành động để thay đổi tình trạng đó” [Tô Duy Hợp. 2004: 9].  Tác giả cũng cho rằng cần phải tiếp cận thuật ngữ vấn đề xã hội ở hai mức ý nghĩa: "Theo nghĩa tổng quát, chung nhất thì đó là các vấn đề chung của cả hệ thống xã hội tổng thể, toàn thể, thí dụ như vấn đề bất bình đẳng xã hội, vấn đề xung đột xã hội,..v..v... Còn theo nghĩa riêng biệt thì đó là các vấn đề của lĩnh vực xã hội, chẳng hạn như vấn đề mại dâm, ma tuý, bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em,..v..v...”
Tác giả hướng đến việc tiếp cận thuật ngữ vấn đề xã hội theo cách hiểu thứ hai ở dạng đo lường thực nghiệm. Để làm cơ sở cho đề tài, tác giả xây dựng các tiêu chí để xác định một vấn đề, có tính xã hội (vấn đề xã hội) qua đó lựa chọn những vấn đề cụ thể cho việc khảo sát như sau:
1)           Có liên quan và  tác động tới nhiều nhóm trong xã hội
2)           Có liên quan và ảnh hưởng đến nhiều thiết chế, lĩnh vực khác nhau
3)           Mang tính chất quốc tế, quốc gia.
4)           Trở thành một chủ đề được bàn bạc nhiều trong các chương trình nghị sự
5)           Nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội, nhiều người biết và bày tỏ quan điểm về nó
6)           Khó giải quyết tận gốc và triệt để.
...qua Lý thuyết xã hội học nghiên cứu về các vấn đề xã hội...
Trong cuốn The Study of Social Problems - 7 perspectives do Earl Rubington và Martin S. Weinberg chủ biên, đã giới thiệu 7 quan điểm lý thuyết xã hội học về các vấn đề xã hội. Mỗi lý thuyết đều trình bày: những nét đặc trưng liên quan đến định nghĩa, nguyên nhân, điều kiện, hậu quả và giải pháp cho các vấn đề xã hội. Sau đó, các tài liệu đọc thêm sẽ giải thích và minh họa cho quan điểm, tiếp đó là giới thiệu chọn lọc những ý kiến phê phán.
Stt
Tên lý thuyết
Họ giải thích
1
Bệnh học xã hội (Social Pathology)
Vấn đề xã hội được coi là sự vi phạm những mong đợi về mặt đạo đức
2
Phá vỡ tổ chức xã hội (Social Disorganization)
Việc phá vỡ tổ chức xã hội dẫn đến sự suy giảm ảnh hưởng của các quy tắc đối với cá nhân. Khi thiếu vắng các quy tắc hay quy tắc không rõ ràng, hoặc xung đột với nhau thì các vấn đề xã hội nảy sinh. Từ đó vấn đề xã hội được xem là phát sinh từ sự xung đột về giá trị.
3
Xung đột giá trị (Value Conflict)
Sự cạnh tranh là  cách thức liên hệ đặc biệt trong các nhóm là điều kiện phát triển xung đột. Vấn đề xã hội được xem là phát sinh từ sự xung đột về giá trị.
4
Hành vi lệch lạc (Deviant Behavior)

Hành vi lệch lạc luôn được học hỏi trong phạm vi nhóm sơ cấp. Nó tạo ra sự xã hội hóa không phù hợp, hay các mô hình giá trị và mô hình vai trò lệch lạc. Từ đó hình thành nên các nhóm lệch lạc, các vấn đề xã hội và sự lây lan của nó.
5
Dán nhãn (Labelling)
Quyền lực chính trị, quyền lục truyền thông, quyền lực của khoa học (tri thức) đã là một nhân tố làm trầm trọng thêm nhóm lệch lạc, vấn đề xã hội, cộng đồng có vấn đề...
6
Phê phán (Critical Perspective),

Sự tồn tại cơ cấu địa vị bất bình đẳng, phân chia gia cấp đã dẫn đến xung đột, phân hóa giàu nghèo... đó là những nguồn gốc sâu xa nhất dẫn đến các vấn đề xã hội.
7
Kiến tạo xã hội (Social Constructionism)
Vấn đề xã hội là gì ? Là cách nhìn nhận của từng người (câu chuyện thầy bói xem voi là hàm ý nói về sự kiến tạo xã hội). Nhiều khi ''các chuyên gia'' quyết định những tình trạng nào bị coi là các vấn đề xã hội.

... đến một sự Phân loại...
Cách phân chia, xác định các loại vấn đề xã hội
Tác giả
Nguồn
Phạm vi
Các vấn đề
Linda A. Mooney, David, Knox và Caroline Schacht
Understanding social prolems (2011)
Nước Mỹ và toàn cầu
Nhóm 1-các vấn đề thuộc về sức khỏe (bệnh tật và chăm sóc sức khỏe, rượu và các chất gây nghiện, tội phạm và kiểm soát xã hội, gia đình); nhóm 2- vấn đề của sự bất bình đẳng (Đói nghèo và sự bất bình đẳng kinh tế, việc làm và thất nghiệp, bất bình đẳng giáo dục, bất bình đẳng chủng tộc, sắc tộc  di trú, bất bình đẳng giới, khuynh hướng tình dục và đấu tranh cho bình đẳng); nhóm 3- các vấn đề của toàn cầu hóa (tăng dân số và đô thị hóa, ô nhiễm môi trường, khoa học và công nghệ, xung đột- chiến tranh và chủ nghĩa khủng bố)

Phân loại của Giáo sư Steven E. Barkan

Social Problems: Continuity and Change, v. 1.0
Toàn cầu
Nghèo, Bất bình đẳng chủng tộc dân tộc, Bất bình đẳng giới, Định hướng tình dục và bất bình đẳng, Lão hóa và sự bất công, Rượu các loại thuốc gây nghiện khác, Tội phạm và Tư pháp hình sự, Hành vi tình dục, Biến đổi trong Gia đình , Trường học và Giáo dục, Làm việc và kinh tế, Y tế Chăm sóc sức khỏe, Vấn đề đô thị nông thôn, Dân số và Môi trường, Chiến tranh chủ nghĩa khủng bố

Toàn cầu
Tội phạm, Bệnh lây qua đường tình dục, Hành vi chống đối xã hội, Nghèo, Lạm dụng ma túy, Nghiện rượu, Suy giảm kinh tế , Thất nghiệp
Tập thể tác giả
Chuyên đề của Viên Thông tin Khoa học xã hội (1976)
Thế giới và việt Nam
1- xâm hại tài sản nhân dân; 2-làm ăn bất lương (làm hàng giả, buôn lậu); 3- bạo lực và tội ác (bạo lực đối với phụ nữ, thanh thiếu niên…); 4- các hoạt động mafia; 5- cờ bạc; 6-Tệ nạn mại dâm; 7-nghiện hút và tiêm chích ma túy; 8- vấn đề bệnh IHV/AIDS
Nguyễn Thị Oanh và cộng sự
An sinh xã hội và các vấn đề xã hội
Việt Nam trong những năm đầu đổi mới
1-Trẻ em có hoàn cảnh đặc khó khăn (trẻ em đường phố, trẻ em lao động sớm, trẻ em khuyết tật, trẻ em trong tệ nạn mua bán dâm, trẻ em bị bạo hành ngược đãi; 2-sự nghèo đới; 3-vấn đề sức khỏe; 4-người cao tuổi; 5- người khuyết tật, 6- Tội phạm; 7-nạn mại dâm; 8-nghiện ngập ma túy; 9-HIV/AIDS
Nguyên Công Bình
Một số vấn đề xã hội của thành phố Hồ Chí Minh trong công nghiệp hóa hiện đại hóa (1998-2000)
Khu vực phía nam
Phân tầng xã hội, cơ cấu xã hội và vị thế các giai tầng, vấn đề nghèo đói và công bằng xã hội.
Nguyễn Ngọc Tuấn
Những vấn đề kinh tế -xã hội và môi trường vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững (2003)
Khu vực ven đô
1- Nhà ở, thất nghiệp; 2- phân cách giàu nghèo; 3- nghèo đói; 2- di cư; 3- tệ nạn xã hội (tội phạm kinh tế, hình sự, dân sự, nghiện ma túy, mại dâm, trẻ em lang thang đường phố); 4- môi trường

Web: Viện Xã hội học Việt Nam
Việt Nam năm 1013
Lạm phát, Thất nghiệp; Bất bình đẳng xã hội; Chất lượng giáo dục; Thiên tai, biến đổi khí hậu; Tham nhũng, buôn lậu;  Ách tắc giao thông; Vệ sinh thực phẩm, môi trường; Chất lượng khám chữa bệnh; Dịch bệnh và Vấn đề khác
Phú Văn Hẳn, Nguyễn Tuấn Triết
Các vấn đề xã hội ở TPHCM
Phía nam-TPHCM
(1) vấn đề lao động và việc làm; (2) vấn đề đời sống dân cư; (3) vấn đề dân tộc và tôn giáo; (4) vấn đề tệ nạn xã hội; (5) vấn đề trẻ em; (6) vấn
đề dân nhập cư và (7) vấn đề nhà ở và đô thị
GS Tương Lai
Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội
Việt Nam thời kỳ bắt đầu kinh tế thị trường
1-Phân tầng và bất bình đẳng xã hội; 2-nhà ở và môi trường sống đô thị; 3-người nghèo; 4-dân số; 5-gia đình; 5- người cao tuổi; 6-biến đổi văn hóa và khoa học.
Giang Thanh Long và Dương Kim Hồng
Các vấn đề xã hội trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế ở Việt Nam (2005)
Việt Nam
1- trẻ em đường phố, HIV/AIDS; 2-lao động và việc làm của thanh niên; 3-giáo dục; 4-bất bình đẳng thu nhập; 5-người cao tuổi.
Bùi Thế Cường và cộng sự
Báo cáo:Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi xã hội của cư dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Thành phố Hồ Chí Minh
Khoảng cách giàu nghèo, suy thoái đạo đức xã hội, tệ nạn gia tăng, ô nhiễm môi trường, thất nghiệp
Thanh tra Chính phủ-WB
Tham nhũng từ góc nhìn người dân, doanh nghiệp, cán bộ,  công chức, viên chức kết quả khảo sát xã hội học (2011)
Việt Nam
Thu nhập, giá sinh hoạt, tai nạn giao thông, chất lượng giáo dục, tham nhũng, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, chất lượng y tế, an toàn thực phẩm.

…. rồi tạm Kết luận lại ở đây.
Có thể xác tín một điều rằng còn nhiều hiện thực xã hội được coi là “có vấn đề” đang xẩy ra trong thực tế cuộc sống mà những nhà nghiên cứu trên trình bày, chưa đề cập đến, điều đó không phải do sự giới hạn tri thức mà do những mục tiêu và giới hạn nghiên cứu riêng.
Khái niệm vấn đề xã hội hết sức lỏng lẻo, vì thế những gì gọi là vấn đề xã hội, hay như thế nào mới là vấn đề xã hội (tiêu chí) luôn là một thử thách cho sự thống nhất. Vì vậy, tùy vào những hoàn cảnh khác nhau mà mỗi người có thể có những tiếp cận riêng, nhưng những nguyên tắc cơ bản nhất của khoa học vẫn phải được tuân thủ.
Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải xây dựng những nguyên tắc khoa học đó, hay cụ thể hơn phải có một tiêu chí chung để xác định cái gì là “vấn đề xã hội” khi chúng ta xem xét nó từ góc độ khoa học. Có nghĩa là phải thống nhất một bộ tiêu chí, hay một số bộ tiêu chí để xác định vấn đề nào là vấn đề xã hội theo nghĩa khoa học. Việc này không phải là nỗ lực đi thống nhất một định nghĩa chung nhất về vấn đề xã hội mà là nhằm tách biệt hai dạng tri thức thông thường và tri thức khoa học khi định nghĩa vấn đề xã hội. Tác giả của bài viết này với nỗ lực cá nhân của mình và sự trao đổi nghiêm túc với các bạn đồng nghiệp đã đưa ra 6 tiêu chí xác định một vấn đề xã hội ở góc độ khoa học (ở trang 9 bài này). Có thể vẫn còn quá đơn giản, phổ quát hay chưa phản ánh được hết các đặc tính vốn có của cái gọi là vấn đề xã hội thì đó cũng là lẽ đương nhiên. Vì vậy, tác giả luôn mong muốn có những trao đổi nghiêm túc về vấn để này để giá trị khoa học không bị “dân gian hóa” một cách phổ biến như hiện nay.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Công Bình. Đời sống xã hội vùng Nam bộ. Nhà xuất bản đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
Bùi Thế Cường. Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 2010.
Bùi Thế Cường, Lê Thanh Sang Một số vấn đề về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội ở Tây Nam Bộ: kết quả từ một cuộc khảo sát định lượng năm 2008”. Tạp chí Khoa học xã hội số 3(193)-2010: 47
Bùi Thế Cường. Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi xã hội của cư dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Báo cáo đề tài nghiên cứu năm 2012.
Lê Bạch Dương và cộng sự. Báo cáo phát triển Việt Nam 2008: Bảo trợ xã hội. Nxb Thế giới. 2008.
Martin Evans,….Đào Thanh Huyền và Đỗ Lê Thu Ngọc. An sinh xã hội Việt Nam lũy tuyến đến mức nào ?. 2006.
G.Endrweit và G. Trommsdorff. Từ điển xã hội học. Nxb. Thế giới. Hà Nội. 2002 (Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bão dịch).
Giang Thành Long, Dương Kim Hồng (Cb). Các vấn đề xã hội trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế ở Việt Nam,  tập 1. Diễn đàn phát triển Việt Nam. 2007.
Tô Duy Hợp. Các vấn đề xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 2004.
Nguyễn Y Na, Nguyễn Đức Anh, Nguyễn Như Diện, Hà Ngân Dung, Trần Hoàng Hoa, Ngô Thế Phúc, Nguyễn Chí Tình. Tệ nạn xã hôi căn nguyên-biểu hiện-phương thức khắc phục. Chuyên đề, Viện Khoa học thông tin, năm 1996.
Tương Lai. Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 1997.
Lê Văn Lân, Nguyễn Đình Cử. Nguyên  nhân kinh tế-xã hội của tình trạng tham nhũng ở Việt Nam. Tạp chí Xã hội học, số 1(93), 2006.
Trịnh Duy Luân. Phát triển xã hội ở Việt Nam một tổng quan xã hội học năm 2000. Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Trần Hữu Quang. Hệ thống phúc lợi ở thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu tiến bộ và công bằng. Báo có đề tài năm 2009.
Nguyễn Thị Oanh(chủ biên). An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. ĐH Mở bán công Tp. HCM.1997.
Nguyễn Ngọc Tuấn. Những vấn đề kinh tế -xã hội và môi trường vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững. Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2003.
Ban Nội chính Trung ương-UNDP. Tham nhũng từ góc nhìn người dân, doanh nghiệp, cán bộ,  công chức, viên chức. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2012.
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)-Trung tâm Kinh doanh và nhà nước, thuộc đại học Harvard. Thành phố Hồ Chí Minh những thách thức tăng trường. 2010 (các tác giả David Dapice, Jose A. Gomez-Ibanez và Nguyễn Xuân Thành)
UBND TPHCM, Viện nghiên cứu phát triển TPHCM. Để tài: Hệ thống phúc lợi ở thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu tiến bộ và công bằng”Trần Hữu Quang chủ nhiệm. 2009.
Viện thông tin khoa học xã hội. Từ điển tóm tắt thuật ngữ xã hội học. Hà Nội. 1976.
Tiếng nước ngoài
Linda A. Mooney, David, Knox và Caroline Schacht. Understanding social prolems. East Carolina University, 2009.
Earl Rubington, Martin S.Weinberg viết cuốn sách. The Study of Social Problems: Seven Perspectives. Oxford University Press, 1995.
Tài liệu web
http://www.ihs.org.vn/index.asp?url=detail&id=221&sub=


[1] Nguyễn Vũ Quỳnh Anh/ http://www.ihs.org.vn/index.asp?url=detail&id=221&sub=
[2] [Phạm Nguyên Trường, http://www.talawas.org/?p=20525

1 nhận xét:

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.