27 tháng 6, 2011

GIA ĐÌNH VIỆT NAM-TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Gia đình Việt Nam hiện nay - Từ góc nhìn văn hóa

Nguyễn Lê Hiểu Mai


Gia đình là một cộng đồng khá đặc thù có thiết chế, chuẩn mực mà các thành viên của nó gắn bó với nhau chủ yếu trong sự đảm bảo của các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và nhiều khi ở một danh nghĩa đặc biệt nào đó (trường hợp con nuôi, cháu nuôi…), bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mỗi thành viên và cả cộng đồng và đáp ứng yêu cầu tái sản xuất con người, với các chức năng cơ bản: chức năng sinh sản, chức năng kinh tế, chức năng giáo dục, chức năng tâm lí, tình cảm, chức năng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Về các quan hệ, gia đình có nhiều mối quan hệ phản ánh những quan hệ của xã hội mà kiểu gia đình đó tồn tại, như quan hệ huyết thống và phi huyết thống, quan hệ văn hóa, quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ tổ chức…
Có nhiều ý kiến cho rằng khái niệm gia đình chủ yếu quan trọng đối với phương đông nói chung và Việt Nam nói riêng, như thế có lẽ chưa được thỏa đáng lắm. Ở một số thời điểm, hoặc một phương diện nào đó, người phương Tây cũng rất coi trọng gia đình, chẳng thế mà rất nhiều công trình triết học, trong đó có triết học Marx, đã từng bàn về gia đình với tư cách là một đối tượng nghiên cứu độc lập. Trong văn học, những bi kịch gia đình cũng đã được đề cập rất sớm trong văn học phương Tây như bi kịch Oe dipe, và cũng đã có nhiều tác phẩm viết về khát vọng hay nỗi đau gia đình, bi kịch gia đình như Eugénie Grandet của Honoré de Balzac, Không gia đìnhcủa Hector Malot… Có chăng, cái khác của phương Tây với phương đông, nhất là Việt Nam, là quan niệm về cấu trúc, ứng xử trong gia đình truyền thống mà thôi.
Việt Nam là một quốc gia khởi thủy từ văn minh, văn hóa lúa nước, trong truyền thống, gia đình luôn là hạt nhân cơ bản của đời sống, trước hết xuất phát từ nhu cầu tổ chức sản xuất. Sự phân công lao động trong gia đình truyền thống Việt Nam, với đặc thù của nền nông nghiệp lúa nước, là hết sức chặt chẽ và khoa học. Mỗi người được phân công một nhiệm vụ nào đó trong chuỗi sản xuất phù hợp với lứa tuổi, sức lực, điều kiện thời tiết… Ví dụ, đàn bà gặt, đàn ông bó và vận chuyển lúa, trẻ con trông em, chăn trâu đầu bờ trong lúc trâu chờ kéo xe (hoặc mò cua cá, cải thiện), người già trong nhà, bếp núc, phơi phóng… Có thể nói câu ca dao “trên đồng cạn, đưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” đã phản ánh khá chân thực và sinh động mô thức đời sống, sự phân công lao động trong gia đình Việt Nam. Ngay cả đến thời hiện đại, tổ chức lao động trong gia đình cũng vẫn theo mô thức này: “Hôm qua anh đến chơi nhà/ Thấy mẹ dệt vải, thấy cha đi bừa/ Thấy nàng mải miết xe tơ/ Thấy cháu i tờ ngồi học bi bô…”. Gia đình có vị trí trọng yếu trong tổ chức đời sống của người Việt, và đương nhiên nó trở thành một nét văn hóa, một phạm trù văn hóa của người Việt. Vậy nên yếu tố gia đình xuất hiện khá dày đặc trong lịch sử người Việt, thể hiện thành một chủ đề quan trọng trong các thành tựu văn hóa, văn học dân gian, đặc biệt trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ, kiểu “công cha như núi Thái Sơn…”, “Anh em như thể tay chân”, “Nước mất nhà tan”, “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, “Đi làng bênh họ, đi họ bênh anh em” hoặc mô hình tứ đại đồng đường đã một thời là lí tưởng, ước mơ của nhiều người, và rất được tôn vinh …. Trong những khác biệt giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa, có một điểm khá quan trọng là sự hình thành cộng đồng và thói quen ứng xử trong cộng đồng ấy. Suốt ngàn năm Bắc thuộc và cả về sau, nhà cầm quyền Trung Quốc, với tham vọng bá chủ của tư tưởng tự thị Đại Hán, luôn tìm cách xâm phạm bằng áp đặt hoặc cố gắng tạo ra những chồng lấn về lãnh thổ, văn hóa, kinh tế để thực hiện ý đồ phá hoại hoặc đồng hóa lâu dài, người Việt luôn luôn tìm cách chống lại những nỗ lực đồng hóa ấy. Trong lúc tiếp thu những điểm khả thủ của văn hóa Trung Hoa, người Việt luôn luôn có ý thức bài trừ, tẩy chay những điểm không phù hợp hoặc chống lại truyền thống dân tộc. It nhất người Việt cũng tạo được một quân bình nào đó để bảo vệ truyền thống, và ở đây, vai trò của gia đình cũng được thể hiện. Câu ca dao “mồng một tết cha/ mồng hai tết mẹ/ mồng ba tết thầy” có thể coi là phản ứng bảo vệ giá trị gia đình trước trật tự “quân - sư - phụ” của Nho giáo, mặc dù đạo lí tôn sư trọng đạo vẫn được người Việt thể hiện theo cách của mình: “Muốn sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”; “không thầy đố mày làm nên”…
Vậy nhưng, từ góc nhìn văn hóa và cả trên thực tế, gia đình truyền thống Việt Nam đang đứng trước nguy cơ rạn vỡ, trên cả thực tế của thiết chế này và trong cả chiều sâu của quan niệm, của triết lí về gia đình, văn hóa gia đình (mặc dù hàng năm chúng ta vẫn cấp không biết cơ man nào là danh hiệu gia đình văn hóa, mà thực tình, đây là một khái niệm khá tù mù). Thực ra điều mà chúng tôi đang nhắc đến đây cũng chẳng mới mẻ gì. Ngay từ tiền bán thế kỉ XX, những vấn đề của gia đình đã được nhắc đến trong bộ phận nhạy cảm nhất của xã hội - các sáng tác văn học. Các tác phẩm thời kì này nhắc đến gia đình, hoặc cố gắng phá bỏ nó để đáp ứng nhu cầu hạnh phúc, cá nhân, quyền con người (trường hợp của nhóm Tự lực văn đoàn), hoặc dự báo những rạn vỡ đáng tiếc (trường hợp sáng tác của Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng...). Từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến thời điểm thống nhất đất nước, vấn đề gia đình dường như tạm được quên đi, để tập trung cho những tính toán, những lo toan khác. Nhưng ngay từ những thập niên tám mươi của thế kỉ trước, đề tài này đã trở lại một cách khắc khoải trong văn học vớiMùa lá rụng trong vườn  Đám cưới không có giấy giá thúcủa Ma Văn Kháng, Thời xa vắngcủa Lê Lựu,Tướng về hưu, Không có vua…của Nguyễn Huy Thiệp, và ngày càng được nhắc nhiều hơn trong văn học, trong các công trình nghiên cứu văn hóa, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các mạng xã hội… dưới dạng các bài viết phân tích, bình luận hoặc những thông tin phản ánh sự suy thoái, xuống cấp của quan hệ gia đình như con giết cha, anh giết em, vợ giết chồng, tranh chấp đất đai, tài sản, li hôn, bạo hành gia đình…
Cũng đã có nhiều ý kiến phân tích, luận giải những biểu hiện của thực trạng trên. Tuy nhiên, phân tích, luận giải một cách thực sự có ý nghĩa, trách nhiệm và toàn diện vấn đề này là không hề dễ do tính chất phức tạp nhiều khi đến bất thường, tréo ngoe của các quan hệ gia đình và xã hội, bản chất con người và sự bấp bênh của các giá trị trong những bước đi gập ghềnh, lo lắng của lịch sử. Người viết bài này chỉ dám đưa ra những nhận định chắc chắn còn nhiều thiếu sót, đầy chủ quan, cảm tính và nhiều khi còn cực đoan nữa.
Chúng ta đang sống trong một đời sống mà giá trị đồng tiền trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết. Một phần rất lớn các sự vụ được nhắc trên báo chí về các xung đột gia đình, có liên quan đến tiền bạc, lợi nhuận. Trong một bài viết gần đây chúng tôi có nói rằng tiền bạc, lợi nhuận chính là điểm yếu của đạo đức, khi đặt nó trong quan hệ gia đình Việt Nam hiện đại, đương đại, ta càng thấy điều đó được khẳng định rõ hơn. Quả thật rất ít người đủ can đảm từ chối những cám dỗ của lợi nhuận, tiền bạc để bảo vệ những giá trị truyền thống (điều này nhiều khi đúng với cả những người thực thi một chủ trương, một dự án, đề án trong lĩnh vực văn hóa về bảo tồn giá trị truyền thống). Khi quyền lực đồng tiền được đẩy lên tối thượng thì việc hướng đến những giá trị truyền thống, đến nguồn cội và gia đình đương nhiên đứng trước nguy cơ bị xem nhẹ, thậm chí bị phớt lờ. Cha con, anh em, vẫn có thể kiện nhau ra tòa, hoặc nói chuyện đến cùng bằng dao búa chỉ vì một miếng đất, một căn hộ. Điều đó thậm chí xảy ra ngay cả trong giới trí thức, những người hoạt động văn hóa. Bên cạnh những chia rẽ do tranh chấp ấy là sự phai nhạt tình cảm do bận bịu với những mong muốn được thoát nghèo hoặc làm giàu. Đã có những người bội phản chồng (vợ) chỉ nhằm bước một nấc cao hơn trên bậc thang danh vọng, địa vị hoặc đầy thêm các tài khoản trong nước ngoài nước. Những người này nếu không dẫn đến li hôn thì thường cũng sống trong bi kịch của sự thiếu hụt niềm tin. Ngoài ra cần phải kể đến một lực lượng vô cùng đông đảo những người sẵn sàng thoát li tổ ấm gia đình để đi tìm miền đất hứa, tuy nhiên hành động này chỉ thực hiện kèm theo sự hỗ trợ đắc lực của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhu cầu phân bố lao động và quá trình đô thị hóa, quá trình con người bị đẩy khỏi dung môi kinh tế truyền thống, đẩy khỏi quê hương bởi thực trạng ruộng đất dần bị thu hẹp vì nhiều lí do. Cách nay vài chục năm, ở quê tôi, mô hình sản xuất “trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” vẫn thể hiện một cách sinh động và ấm áp mỗi ngày; và vào ban đêm, dưới ánh đèn dầu (sau này có điện thắp sáng), các gia đình vẫn quây quần chăm lo cái “xưởng” sản xuất thủ công truyền thống (đan nón, rổ, rá, nong, nia, cót…) với các thành viên phụ trách từng khâu đoạn trong một mô hình phân công lao động khá chặt chẽ. Nhưng ngày nay, thanh niên, đàn ông, tóm lại là lực lượng lao động chính đã bỏ nhà bỏ quê với bao truyền thống tốt đẹp, đi đến vắng làng, dưới hình thức xuất khẩu lao động, hoặc mòn mỏi với công việc lấy mủ cao su, cuốc cỏ cà phê hay khắc khoải trong các xưởng may mặc, dày da xuất khẩu, có kẻ dăm bảy năm mới về nhà, và gia đình, quê hương đối với nhiều người chỉ còn là một vệt mờ trong kí ức, chỉ trở lại trong ba ngày tết xa xứ (trong số những người đi ra, đã có kẻ trở thành nạn nhân của các tệ nạn xã hội, có kẻ bỏ mạng nơi đất khách quê người).
Quá trình đô thị hóa cũng góp phần quan trọng đẩy con người tồn tại trong cùng một gia đình ra xa nhau hơn. Nếu trước đây (và ngày nay còn phổ biến ở các vùng nông thôn), không gian sinh hoạt gia đình chủ yếu trải theo chiều rộng, trên một mặt bằng, mọi hoạt động diễn ra khá tập trung và dẫu có sự ngăn cách nào đấy cũng chỉ là tương đối trong một số thời điểm cụ thể của ngày, thì với quá trình đô thị hóa, với sự chật hẹp của đất đai, không gian sinh hoạt gia đình chuyển dần theo chiều cao của kết cấu nhà tầng hiện đại, trong đó chiếc cầu thang và những cánh cửa hẹp đã trở thành vật cản cơ bản hạn chế khả năng, cường độ, tần số giao tiếp, chia sẻ giữa các thành viên. Cùng với sự phát triển của kinh tế là chế độ sinh hoạt độc lập. Nhiều gia đình đô thị ngày nay có phòng riêng cho từng cá thể, nhất là những gia đình bậc trên về kinh tế và có chủ trương giáo dục ý thức tự lập, độc lập cho con cái. Có những trường hợp, ngay từ khi bước vào lớp đầu tiên của bậc tiểu học, bố mẹ đã cho “ra riêng” bất chấp việc các em có thể làm những việc không phù hợp với tâm lí lứa tuổi hay trái với thuần phong mĩ tục, bất chấp các em có thể gặp nguy hiểm trong trường hợp bất ngờ đau bệnh, tai nạn… Cũng trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa, con người bắt đầu có những biểu hiện ứng xử phi truyền thống đối với gia đình bắt đầu từ ý thức về nguồn cội. Trong không gian sinh hoạt gia đình trải theo chiều rộng trước đây, với vị trí phổ biến của bàn thờ, các thành viên trong gia đình hàng ngày muốn hay không vẫn tiếp xúc, bằng hành động dọn dẹp, trang trí, hoặc có khi chỉ ngang qua (trong mấy bước chân từ nhà trên xuống nhà dưới) không gian thờ cúng, và mỗi lần như thế, một ý niệm về tổ tiên, về gia đình lại được nhắc nhở, một nếp nhăn về tổ tiên, về gia đình lại lưu lại trong tiềm thức. Trong kết cấu nhà tầng hiện nay, gian thờ thường đặt ở nơi cao nhất bằng một phòng biệt lập với các cánh cửa năm thì mười họa mới được mở nhân dịp lễ tết, dĩ nhiên con người (nhất là những người trẻ) sẽ dần trở nên xa lạ với không gian này - thứ không gian, với họ, không còn là thiêng nữa - để đến lúc họ sẽ mất hết hoàn toàn ý niệm về truyền thống tổ tiên, gia đình. Thêm một nguyên nhân khiến gia đình truyền thống Việt Nam với những giá trị tốt đẹp của nó bị mai một. Những điều vừa nói góp phần quan trọng giải thích vì sao sự bảo lưu truyền thống trong các gia đình ở đô thị thường thấp thua so với các gia đình ở nông thôn.
Một trong những điểm dễ thấy của xã hội hiện đại là mở ra nhiều kênh làm ăn kinh tế cho mọi cá thể. Nếu trước nay, mỗi cá nhân chỉ biết đến một số lượng ít ỏi công việc của mình theo sự phân công của Nhà nước, thì ngày nay, ngoài lĩnh vực công việc cụ thể của mình, người ta có điều kiện để tham gia các hoạt động làm ăn khác, và những áp lực công việc đương nhiên sẽ làm giảm đi một cách rất đáng kể về thời gian và tâm, lực của cá nhân dành cho gia đình. Ngoài ra, sự sản sinh nhiều trò vui chơi, giải trí, nhiều tụ điểm hưởng thụ cũng khiến người ta dần thờ ơ với gia đình hơn. Thay vì hết giờ làm việc, trở về chăm lo cho gia đình thì rất nhiều cả những người “xây nhà” và những người “xây tổ ấm” đều dành thời gian cho sân chơi thể thao hoặc tiệc tùng ở các quán nhậu. Và một số ngôi nhà được xây cất nhiều khi sang trọng, đẹp đẽ trở nên phí phạm vì nó chỉ còn giá trị như chỗ nghỉ trọ qua đêm. Những việc khác diễn ra trong không gian ấy họ không biết đến, và ở đó con cái có thể làm bất cứ việc gì. Nhân đây cũng xin nói thêm rằng, bình đẳng giới - một trong những điểm ưu việt của xã hội hiện đại, trong đó có Việt Nam, đã cất nhắc không ít phụ nữ lên địa vị trọng yếu và giải phóng họ khỏi nhiều ràng buộc của truyền thống. Trong bộ phận “nữ lưu” ấy, có không ít người vì hăng say và bận bịu với các mối quan hệ công sở, đối tác, cũng thường xuyên vắng nhà bởi những chuyến du lịch, công cán dài ngày, hoặc đi sớm về muộn. Họ cũng dành thời gian, tâm huyết cho tiệc tùng, sân chơi thể thao, siêu thị, sàn nhảy… Trong trường hợp này, họ đã đẩy công việc “xây tổ ấm” vốn là thiên chức của họ theo quan niệm truyền thống, cho đàn ông, những kẻ chỉ làm công việc nặng về “cơ bắp” là “xây nhà”. Và gia đình ấy có thể sẽ được đảm bảo nếu các thành viên còn lại chưa đến nỗi bất hạnh có người đàn ông trách nhiệm, nhưng chắc chắn sẽ khó mà hoàn thiện một cách đúng nghĩa. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất cứ lúc nào thì vai trò người phụ nữ trong gia đình cũng hết sức quan trọng, nhất là việc nuôi dạy con cái, và họ cần đáp ứng được niềm tin và trách nhiệm mà truyền thống đã gửi gắm, trong những câu như: “Mồ côi cha ăn cơm với cá/ mồ côi mẹ lót lá mà nằm”, “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”… Xét đến cùng, trong quan hệ gia đình, nếu người lớn là người định hướng tổ chức các quan hệ hiện tại trong phạm vi tư tưởng của họ, thì những người quan trọng góp phần giữ lửa truyền thống chính là thế hệ kế tiếp - nhất là với thực trạng khá phổ biến là gia đình Việt Nam hiện tại đang nhìn thấy sự trỗi dậy và thống trị của gia đình hạt nhân. Và họ cần được giáo dục, định hướng ngay từ nhỏ, bởi các bậc phụ huynh.
Sự bất cập, mâu thuẫn trong ý thức hệ cũng là một trong những nguyên nhân đặt gia đình người Việt vào nguy cơ bị biến dạng, hoặc tan rã. Điểm phức tạp của xã hội Việt nam là trong chỉ một thế kỉ đã lần lượt chứng kiến và tiếp nhận nhiều hệ tư tưởng khác nhau: tư tưởng bản địa, tư tưởng Nho giáo (dẫu là cuối mùa), tư tưởng Tư sản phương Tây và tư tưởng vô sản. Không có một tư tưởng nào có thể tồn tại một cách độc tôn tự nhiên, phi cưỡng bức. Sự thật là như vậy. Sự thật là trong bấy nhiêu năm, khi ngấm ngầm, khi công khai, những cuộc tranh đấu giữa các tư tưởng khác nhau chưa bao giờ dứt, chính vì thế, việc tiếp nhận các tư tưởng dù là nội sinh hay ngoại nhập đối với người Việt đều diễn ra không trọn vẹn và thấu đáo: hoặc chưa tiếp thu được một cách sâu sắc, thấu đáo thì đã bị gián đoạn, hoặc tiếp thu một cách vội vàng, giáo điều theo kiểu lấy được, và trong hành trang tinh thần của người Việt, tư tưởng mà họ có là thứ ông chẵng bà chuộc, đầu ngô mình sở… Và lịch sử Việt Nam lại hết sức phức tạp (điều này quy định những đặc điểm vừa nêu của tư tưởng), cứ quãng một thế hệ lại xảy ra một khúc quanh, sự thống nhất tư tưởng, tâm lí, tình cảm không dễ có. Chính điều này làm nảy sinh cái gọi là khoảng cách thế hệ, ngoài xã hội đã vậy, trong gia đình cũng vậy. Những người còn mang ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo sẽ mâu thuẫn với những người ảnh hưởng tư tưởng phương Tây hồi đầu thế kỉ, tiếp đó là sự mâu thuẫn tư tưởng tư sản với tư tưởng vô sản, và ngày nay là khoảng cách giữa thế hệ từng sống trong chiến tranh và thế hệ hậu chiến, trước Đổi mới và Đổi mới. Với cách nghĩ khác nhau như vậy, không dễ gì đạt đến một thống nhất, đồng thuận về mặt tư tưởng. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến tổ chức gia đình. Con cái đi ngược lại mong muốn của các bậc làm cha làm mẹ là điều không hiếm gặp trong gia đình Việt Nam hiện đại… Nhất là trong giai đoạn này, khi mà những người trẻ và phụ nữ rất có ý thức về quyền dân chủ của họ - cũng là thứ dân chủ được tiếp nhận một cách vội vàng, vồ vập không có sự chuẩn bị bằng một quá trình lịch sử - tư tưởng, để trở thành một phản ứng cực đoan so với sự thiếu hụt dân chủ trong một giai đoạn nhất định. Thứ dân chủ ấy không có chiều sâu của những suy nghiệm triết học và triệt để thiếu chiều sâu nhân văn. Điều này khiến việc đấu tranh để đi đến hòa giải, thống nhất trong gia đình bị biến thành những cuộc cãi vã phi chuẩn mực và đạo đức, khiến hình ảnh gia đình trở nên méo mó so với truyền thống.
Có một điều khá bất nhẫn, nhưng không thể không nhắc đến, đấy là khả năng tồn tại của gia đình truyền thống trong tương quan với việc quản lí xã hội. Đã có một thời, do yêu cầu nhiệm vụ của các cuộc, các lĩnh vực cách mạng xã hội, do yêu cầu giải quyết những nhiệm vụ trước mắt, và do thứ tâm lí mà GS. Nguyễn Đình Chú, trong một bài viết trên một tạp chí khoa học xã hội và nhân văn gần đây, gọi là “tự cao vô sản”,  chúng ta đã nhân danh đấu tranh bài trừ những yếu tố lạc hậu, những tàn dư tinh thần của xã hội cũ mà vô tình tạo ra phong trào ứng xử thô bạo với truyền thống. Việc đốt phá đình chùa, miếu mạo, tàn dư của xã hội cũ xét đến cùng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lí của con người trước những giá trị truyền thống, trong đó có những thức nhận hay ám ảnh đầy kì thị về gia đình, tổ tiên. Đừng tưởng tư tưởng phong kiến, với những điển phạm của nó, không góp phần giữ gìn truyền thống gia đình. Chúng ta có thể nhầm lẫn giữa nhà thờ với đền miếu, chúng ta có thể nhầm lẫn tín ngưỡng, văn hóa thờ phụng tổ tiên với hành động mê tín dị đoan. Có một thời người ta đã ngại thờ cúng, và điều đó xâm hại phần nào đến phong tục, lễ nghi đối với tổ tiên, với tiền nhân, và nó gián tiếp hoặc nhiều khi trực tiếp, là nguyên nhân khiến người ta đôi khi nhạt nhẽo với gia đình, nhất là trong tình trạng dân trí thấp.
Trở lên, chúng tôi có bàn đôi điều về gia đình Việt Nam hiện đại trong tương quan với truyền thống từ góc nhìn văn hóa. Chúng tôi không hề có ý định phủ nhận những giá trị đương đại - một nội dung quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại của văn hóa nói riêng và xã hội nói chung, trong đó có gia đình. Nhưng có một thực tế là đời sống đương đại đang có nhiều tác động đến gia đình, khiến tổ chức này đang mất dần những yếu tố truyền thống vốn là cái lâu nay vẫn đảm bảo cho sự tồn tại của nó. Không ai có thể bằng một việc làm, một tiếng nói cụ thể để níu giữ hoặc loại bỏ một yếu tố thuộc về văn hóa, và câu chuyện về gia đình vẫn phải bàn dài dài. Nhưng điều cơ bản nhất, để đảm bảo những giá trị của gia đình, những khả năng của nó trong việc cố kết con người trong một tình cảm cao đẹp, theo chúng tôi là sự nhận thức một cách đầy đủ giá trị của nó theo tiêu chí nhân văn - yếu tố quan trọng nhất cho sự tồn tại của mọi giá trị.

24 tháng 6, 2011

SỰ LẠNH LÙNG ĐẾN TÀN BẠO = ĐÁNG TIẾC

Trên một số báo mạng ngày hôm nay  đưa một thông tin, đọc xong nghe xong, suy ngẫm thấy thật đau lòng. Nhất là trong chương trình thời sự trưa ngày 24/6 của Đài truyền hình Việt Nam, một hình ảnh hiện lên sư đau đớn vô cùng. Đó là hình ảnh cái bàn thờ được các công nhân Công ty TNHH vật liệu  Giai Đức Việt Nam (Chương Mỹ, Hà Nội) dựng lên ngay trước cổng công ty để thắp những nén nhan tiễn biệt trong đau đớn một nữ công nhân xấu số vô tôi đã bị người ta dùng cả chiếc xe tải lao vào người dẫn đến cái chết thương tâm của chị và nhiều người bị thương. Lý do thật đơn giản.  Một nhóm công nhân tổ chức đình công, một việc làm đễ hiểu để đòi quyền lợi mà đáng ra họ phải được hưởng - tăng lương và tăng tiền ăn trưa. Nhưng người ta đã đối xử một cách rất lạnh lùng, tàn bạo bằng việc tông thẳng chiếc xe tải vào đám đông. Có lẽ trái tim và lý trí của người lái chiếc xe đó cũng không chỉ bị điều khiển bởi chính anh ta mà còn một thế lực nào đó đứng đằng sau chăng?. Anh ta đã bị bắt và rồi anh ta sẽ phải trả giá cho tội lỗi mà mình gây ra, nhưng điều để lại là sự lạnh lùng đến tàn bạo của người tài xế lái xe tải và những "thế lực" đằng sau, bên trên anh lại đáng sợ hơn!. Ngay sau đó những người có trách nhiệm đã vào cuộc. Trong một cuộc họp để xử lý sự việc của UBND huyện Chương Mỹ, ông Bí thư Huyện ủy có nói đó là một sự việc "đáng tiếc" . Ôi !!! người ta đã không "đáng tiếc" để nói ra sự "đáng tiếc" về một mạng người và nhiều vết thương trên những con người khác. Chỉ có "đáng tiếc" thôi sao???  Sự lạnh lùng vô cảm của nhiều người trên những nỗi đau vô cùng và tất cả chúng ta thấy thật đau đơn !
Ngô Văn Huấn

VĂN HÓA XẤU HỔ VÀ VĂN HÓA TỘI LỖI


Văn hóa xấu hổ và văn hóa tội lỗi

Tác giả: Châu Sa
Văn hóa tội lỗi được cho là thông dụng ở các nước phương tây trong khi văn hóa xấu hổ được coi là ngự trị ở các nước phương đông.
Sự khác biệt của hai nhóm văn hóa
Nhận thức về trách nhiệm và điều sai trái sẽ không giống nhau giữa các nền văn hóa, thậm chí cũng khác nhau với từng nhóm người với mức độ nhận thức khác nhau trong cùng hệ văn hóa.
Các nhà nghiên cứu đã chia văn hóa làm hai nhóm khác biệt: Shame culture (văn hóa cảm nhận xấu hổ hay gọi tắt là văn hóa xấu hổ, đôi khi còn gọi là honour-shame culture: Văn hóa cảm nhận về vinh dự-xấu hổ) và guilt culture (văn hóa cảm nhận tội lỗi hay gọi là văn hóa tội lỗi).
Xấu hổ là cảm giác "tôi thật xấu xa". Tội lỗi là cảm giác "tôi đã làm một việc xấu". Cảm giác xấu hổ là để chỉ tôi là ai trong khi cảm giác tội lỗi để chỉ việc tôi đã làm gì.
Có thể nói người tiên phong cho các khái niệm văn hóa này là nhà nhân chủng học về văn hóa, Ruth Benedict, người Mỹ. Bà đưa ra phân định này trong nghiên cứu của mình về nước Nhật trong Thế chíến thứ II (bài viết được xuất bản năm 1946).
Có thể tóm tắt như sau:
Guilt-culture (VH tội lỗi) Nếu mọi người tin rằng:
Còn tôi tin rằng: Tôi không làm điều đó Tôi làm điều đó
Tôi không làm điều đó Không sao Tôi sẽ bảo vệ mình
Tôi làm điều đó Tôi cảm thấy có tội dù thế nào Tôi cảm thấy có tội và sẽ bị trừng phạt

Shame-culture (VH xấu hổ) Nếu mọi người tin rằng:
Còn tôi tin rằng: Tôi không làm điều đó Tôi làm điều đó
Tôi không làm điều đó Không sao Tôi thấy xấu hổ và bị coi khinh (bởi mọi người tin là tôi có tội)
Tôi làm điều đó Chẳng ai biết nên tôi không xấu hổ Tôi cảm thấy có tội và sẽ bị trừng phạt
Từ niềm tin của cả cá nhân lẫn cộng đồng đối với những khái niệm liên quan đến tội lỗi, mỗi nền văn hóa có những định nghĩa có thể không giống nhau về những điều sai trái.
Người ta qui kết dạng văn hóa nào là dựa trên phản ứng hay hành xử của cá nhân đối với ý kiến của cộng đồng. Thực ra, trong cả hai dạng văn hóa, cá nhân ứng xử tương tự nếu có sự thống nhất trong đánh giá của cả hai phía, cá nhân và cộng đồng.
Sự khác biệt cơ bản sẽ là: Cá nhân trong mỗi dạng văn hóa sẽ hành xử khác khi đánh giá của cộng đồng khác với đánh giá của chính cá nhân đó. Đó là trường hợp cá nhân tin mình không có lỗi trong khi cộng đồng tin là có và ngược lại.
Người thuộc văn hóa tội lỗi sẽ phản bác (thậm chí rất mãnh liệt) khi bị oan và cảm thấy tội lỗi cả khi không ai biết tội của họ. Với họ, động lực ưu tiên là nội lực, là nhận thức của chính họ. Nhận thức bên ngòai không quan trọng. Họ coi trọng thực tế hơn cái biểu hiện bên ngòai.
Với người thuộc văn hóa xấu hổ họ sẽ xấu hổ cả khi bị oan và không xấu hổ khi người khác không biết lỗi của họ. Với họ, lỗi thực không phải cái để suy nghĩ. Họ coi trọng thể hiện bên ngòai hơn thực tế.
Cá nhân và cộng đồng trong sự phát triển văn hóa
Văn hóa tội lỗi nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân, không ảnh hưởng bởi định kiến của xã hội hay những điều đã được xã hội phê duỵệt. Văn hóa tội lỗi liên quan đến sự thật, pháp lý và bảo tồn quyền cá nhân.

Nó cũng cho thấy sự phán xét bên trong của cá nhân mới đóng vai trò quan trọng trong hành xử. Do vậy dạng văn hóa này thích hợp với xã hội đề cao tự do cá nhân (individualistic society). Cảm giác tội lỗi sẽ giữ con người khỏi những việc làm sai trái. Tuy nhiên nó cũng nguy hiểm khi người ta nhận thức sai.
Trong nền văn hóa xấu hổ, các tập tục xã hội phát triển xung quanh các ý niệm liên quan mật thiết đến nhận dạng về cộng đồng. Dạng văn hóa này thích hợp với xã hội đề cao cộng đồng (collective society). Trong văn hóa xấu hổ, cái mọi người tin (hay nghĩ) quan trọng hơn.
Cá nhân thường đặt tiêu chuẩn sống cho mình dựa vào khát khao được tôn trọng hoặc tránh bị xấu hổ lên trên mọi thứ. Những động cơ này làm người ta buộc phải sống tốt theo mong đợi của xung quanh nhưng cũng dễ làm người ta liên quan đến những việc sai trái có thể che giấu được.
Về mặt tâm lý, người phương tây cho rằng cảm giác tội lỗi được coi là cảm xúc "cao cấp" hơn cảm giác xấu hổ. Xấu hổ hay tội lỗi đều là cảm giác tinh thần về trách nhiệm cá nhân, nhưng cảm giác tội lỗi diễn tả trách nhiệm theo chủ quan và vì vậy khuyến khích sự thay đổi nhân cách một cách tích cực.
Cảm giác xấu hổ lành mạnh có thể kích thích động cơ tốt nhưng vẫn bao hàm trách nhiệm ép buộc (mang tính khách quan) và ức chế thay đổi tích cực. Cảm giác xấu hổ hay cảm giác bị coi thường có thể dẫn đến sự hối cải nhưng cũng có thể dẫn đến tính trơ cứng.
Có ý kiến cho rằng khi phương tây di chuyển từ văn hóa xấu hổ sang văn hóa tội lỗi, sự hiện đại hóa được tạo ra. Bởi vì khi cảm giác tội lỗi trở thành động lực chủ yếu của một nền văn hóa thì nền văn hóa ấy sẽ thành công hơn trong việc xây dựng các nền tảng hợp lý, là tiền thân cho phát triển.
Xã hội với văn hóa xấu hổ là xã hội hướng đạo con trẻ bằng cách tạo tâm lý xấu hổ và mối đe dọa bị tẩy chay. Đồng thời điều hành người lớn cũng bằng tâm lý đó. Xã hội với văn hóa tội lỗi được điều hành bằng cách tạo ra và duy trì cảm giác tội lỗi đối với hành vi mà cá nhân tin là không được xã hội phê duyệt và chắc chắn bị lên án (dẫn đến việc trước sau cũng sẽ bị trừng phạt).
Có ý kiến cho rằng khi phương tây di chuyển từ văn hóa xấu hổ sang văn hóa tội lỗi, sự hiện đại hóa được tạo ra. Bởi vì khi cảm giác tội lỗi trở thành động lực chủ yếu của một nền văn hóa thì nền văn hóa ấy sẽ thành công hơn trong việc xây dựng các nền tảng hợp lý, là tiền thân cho phát triển.
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, thực chất quá trình cảm nhận này thể hiện lòng tin (tin điều này là đúng, điều kia là sai) hơn là kiến thức. Cho nên không có dạng văn hóa nào là hòan hảo, cũng không có dạng nào là xa lạ với mỗi con người.
Khái niệm về mắc lỗi và sự công bằng được hiện diện trong cả hai lọai văn hóa, chỉ có chúng được vận hành theo những luật lệ khác nhau. Hai dạng văn hóa này thực sự cùng tồn tại trong một xã hội, chỉ có mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Thậm chí trong mỗi con người cũng có thể tồn tại cả hai dạng văn hóa đó.
Văn hóa tội lỗi được cho là thông dụng ở các nước phương tây trong khi văn hóa xấu hổ được coi là ngự trị ở các nước phương đông. Người ta cũng giả định rằng các dân tộc mang tôn giáo Do thái và Thiên chúa thuộc về văn hóa tội lỗi. Còn các dân tộc Hồi giáo và phương đông thuộc văn hóa xấu hổ. Như phân tích ở trên, các giả định này chỉ mang tính tương đối.
Kết luận của nhà nhân chủng học Ruth Benedict về xã hội Nhật với văn hóa xấu hổ đặc trưng đã bị nhiều học giả Nhật ngày nay phản đối và bác bỏ. Nhưng những khái niệm về hai dạng văn hóa trên rất có ích trong phân tích hành vi của cá nhân và cộng đồng liên quan đến nghiên cứu về văn hóa.
 Theo: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn

21 tháng 6, 2011

BÁO CHÍ VIỆT NAM THỜI THUỘC ĐỊA

Thứ ba, ngày 21 tháng sáu năm 2011


Báo chí Việt Nam thời thuộc địa ( nhân ngày báo chí Việt Nam 2I/6


Tặng các nhà báo Việt Nam- bạn tôi.
Đặng Thị Vân Chi
Những tờ báo đầu tiên
Ngay từ những ngày đầu xâm lược Việt Nam, báo chí đã được thực dân Pháp sử dụng như một công cụ phục vụ quá trình xâm lược của chúng. Lịch sử cũng như nội dung các báo thời kì này phản ánh rõ quá trình xâm lược của thực dân cũng như vai trò phục vụ công cuộc xâm lược của báo chí. Ví dụ ngay trong quá trình xâm lược Nam Kì, Pháp đã ra tờ Nam kì viễn chinh công báo năm 1861. Đến năm 1865 sau khi ba tỉnh còn lại của Nam Kì bị thôn tính thì tên báo được đổi là Nam Kì thuộc Pháp công báo và đến năm 1889, khi nền thống trị của Pháp được xác lập trên toàn cõi Việt Nam thì báo lại được đổi tênĐông Dương thuộc Pháp công báo...
Các tờ công báo này đăng tải các  nghị định, công văn, đạo luật, các chỉ thị của bộ máy thực dân, các bài diễn văn của thống đốc Nam Kì lưu hành chủ yếu trong đám sĩ quan và viên chức thực dân, vì vậy tất cả đều là báo bằng tiếng Pháp.
Bên cạnh những tờ công báo bằng tiếng Pháp naỳ, Pháp còn cho ra tờ báo chữ Hán Xã thôn công báođể phổ biến  những quyết định, những mệnh lệnh của chúng tới đám chức sắc bản xứ cộng tác với chúng. Ngoài ra Pháp còn cho xuất bản những tờ báo phục vụ công cuộc khai thác kinh tế của chúng như tờ Tập san của Uỷ ban canh nông Nam Kì) năm 1865Công báo của Uỷ ban nghiên cứu nông, công, thương Trung Kì và Bắc Kì năm 1889
Theo bài báo “Thử tìm long mạch của tờ báo ta” do tác giả Quán Chi khảo cứu đăng trên Trung Bắc chủ nhật từ số 101(3.3.1942) đến số 104 (29.3.1942) thì chữ quốc ngữ đã được dùng khá phổ biến ở Nam Kì từ trước khi tờ báo Tiếng Việt đầu tiên ra đời là tờ Gia Định báo xuất bản ngày 15/4/1865. Gia định công báo lúc đầu chỉ là một tờ tuần báo chủ yếu đăng những thông tư, chính luận của chính quyền thực dân, một số bài thơ, vài câu chuyện hài đàm, chuyện cổ tích... chưa phải là một tờ báo có tính chất thông tin và truyền bá tư tưởng. Sau Gia định báo tờ báo tiếng Việt thứ hai là tờ Phan Yên báoxuất bản năm 1868 và Nam Kì địa phận năm 1883 cũng có nội dung tương tự.
Về thực chất các tờ báo này cũng chỉ là công cụ của Pháp trong quá trình xâm lược. Nội dung của báo chí chỉ đơn giản là đăng dịch những tờ công báo tiếng Pháp sang tiếng Việt cho người Việt đọc như các công văn, giấy tờ, các văn kiện của chính quyền thực dân hoặc những tờ thông báo, cáo thị, tình hình giá cả, thuế khoá của sở thuế, phòng thương chánh, toà thị chánh...Shawn.F.Mc. Hale trong công trình nghiên cứu của mình về “ấn phẩm và quyền lực” đã nhận xét “chính quyền thuộc địa Pháp cần rất nhiều tài liệu in ấn (mẫu đơn từ, hoá đơn, baó cáo...) để hoạt động một cách trôi chảy (có người đã cho rằng chính phủ thực dân cần giấy nhiều như vũ khí để giữ người dân dưới sự kiểm soát của họ)”[1].
Những người Việt tham gia viết báo hầu hết là những viên chức của chính quyền thực dân thông thạo chữ Hán, chữ Pháp, chữ quốc nhữ như Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, Tôn Thọ Tường, Lương Khắc Ninh...
Cùng với báo chí, thực dân Pháp đã sớm ban hành những đạo luật, sắc lệnh về báo chí cho Đông Dương. Sắc lệnh ngày 30/ 12/1898 đã đình chỉ việc thi hành luật tự do báo chí ngày 29/7/1881 của chính phủ Pháp ở Đông Dương. Theo sắc lệnh này việc thành lập một tờ báo  hay xuất bản phẩm định kì bằng bất cứ thứ tiếng nào đều có thể  bị đình chỉ bởi nghị định của quan toàn quyền và không một tờ báo tiếng Việt nào có thể xuất bản nếu không được phép của quan toàn quyền. Giấy phép xuất bản chỉ được cấp với điều kiện là văn bản các bài đem đăng báo phải được quan toàn quyền Đông Dương duyệt y. Giấy phép này có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào. Việc cấp giấy phép cũng rất hạn chế. Ví dụ ở Nam Kì từ năm 1927 đến năm 1933 có hơn 77 đơn xin ra báo nhưng chỉ có 13 tờ báo được xuất bản(2) các tờ báo đều phải nộp tiền kí quỹ. Các bài báo đều bị sở báo chí của chính quyền địa phương kiểm duyệt trước .( Các bài báo được Sở mật thám Pháp dịch sang tiếng Pháp rồi đưa sang sở báo chí kiểm duyệt). “Khi báo lên khuôn, thanh tra nhà in đến nhà in đọc từng dòng những bài bình luận, phần tin tức quốc tế và các bài tường thuật những cuộc du hành quan phương”[Từ đông sang Tây, tr90]. Cho đến năm 1914, ở Đông Dương có tới 16 sắc lệnh của Tổng Thống Pháp và 20 nghị định của Toàn quyền và Thống sứ có liên quan tới báo chí đã được ban hành. Như vậy thực tế là đã không có tự do báo chí mà chỉ có lưỡi kéo của chế độ kiểm duyệt.
Tình trạng này được duy trì và khẳng định lại một lần nữa bằng luật báo chí ngày 4/10/1927 và kéo dài cho đến năm 1938 mới được bãi bỏ nhờ phong trào bình dân những năm 1936-1939.
Báo chí tiếng Việt những năm đầu thế kỷ XX
Sang đầu thế kỉ XX, quá trình đô thị hoá cũng như sự phát triển của tầng lớp thị dân, lối sống thị dân, những hoạt động công thương nghiệp...đã tạo điều kiện cho báo chí phát triển phong phú hơn. Báo chí thời kì này không còn là của riêng chính quyền thực dân nữa mà đã xuất hiện những tờ báo tư nhân. Về nội dung, các báo cũng không đơn thuần là những tờ công báo nữa mà phản ánh quyền lợi của giới kinh doanh công thương nghiệp cũng như phản ánh những chuyển biến trong tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của Việt Nam lúc bấy giờ. Đáng chú ý là một số tờ như Nông cổ mín đàm, Đại Nam Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo đã bàn nhiều về vấn đề văn hoá xã hội như tuyên truyền cho xu hướng canh tân hoặc đả phá chế độ khoa cử lỗi thời, những hủ tục...Tờ Đại Việt tân báo do E. Babut sáng lập và Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Theo Quán Chi thì Đào Nguyên Phổ là người có công đầu trong việc dịch đăng các tư tưởng mới và các sách Tân thư phổ biến trên báo. Có một hiện tượng đáng chú ý là ngay từ rất sớm vấn đề phụ nữ đã được đưa lên mặt báo, vừa là bàn về vấn đề của phụ nữ nhưng cũng từ vấn đề của phụ nữ và mượn lời phụ nữ để bàn về những vấn đề chung của xã hội.
Đại Nam Đăng cổ tùng báo chỉ tồn tại khoảng 10 tháng trong năm 1907. Sau khi  Đại nam Đăng cổ tùng báo đóng cửa trong suốt 6 năm từ 1907 tới 1913 ở Việt Nam chỉ còn lại hai tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Nam Kì là tờ Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn.
Năm 1913, Đông Dương tạp chí được xuất bản ra số đầu tiên ngày 15/5 tại Hà Nội. Người sáng lập và chủ nhiệm báo là Schneinder, người đã từng ở Việt Nam từ năm 1882 và đã xuất bản tờ Lục tỉnh tân văn và Đại nam đồng văn nhật báo . Vì vậy lúc đầu Đông Dương tạp chí được coi là một chi nhánh củaLục tỉnh tân văn ở Bắc và Trung Kì. Chủ bút báo là Nguyễn Văn Vĩnh với sự cộng tác của các tác giả Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu...
Trong 2 năm đầu 1913-1914 Đông Dương tạp chí (ĐDTC) mang tính chất một tờ báo ngôn luận thông thường tổng hợp, đăng tải các bài về tin tức thời sự chính trị xã hội lẫn văn chương học thuật. Tháng 1-1915 báo Trung bắc tân văn (TBTV) xuất bản ở Hà Nội, chủ nhiệm báo vẫn là Schneider và Nguyễn Văn Vĩnh là chủ bút với các cộng tác viên như của ĐDTC. Và để phục vụ chính sách động viên cho chiến tranh của Pháp, TBTV sẽ chuyên “nghị luận về những việc thời vụ”  còn ĐDTCí sẽ chuyển thành một tờ báo có tính chất văn học chuyên giới thiệu và dịch các tác phẩm văn học nước ngoài và các bài về khoa sư phạm. Cũng như ĐDTC, TBTV lúc đầu là một tờ tuần báo, đến năm 1916 thì 3 ngaỳ ra một số và đến năm 1919 khi Nguyễn  Văn Vĩnh mua lại tờ báo và nhà in từ Schneider thì báo ra hàng ngày.
Từ sau chiến tranh thế giới I đến I930
Cũng từ sau chiến tranh thế giới I báo chí phát triển mạnh hơn do Pháp không giữ độc quyền báo chí như trước nữa. Nhiều người Việt Nam được phép xuất bản báo chí và đương nhiên là phải tuân theo pháp luật của chính quyền thực dân và phải chịu sự kiểm soát của chúng. Đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới I tới những năm đầu thập niên 30, báo tiếng Việt phát triển nhanh chóng cả về số lượng và nội dung. Năm 1922, cả nước chỉ mới có 19 tờ báo tiếng Việt thì đến năm 1925 đã có 25 tờ, năm 1927 có 36 tờ và năm 1929 lên tới 47 tờ. Các tờ báo tiêu biểu thời kì này là: Đông Dương tạp chí (1913-1918),Trung Bắc tân văn (1915-1945), Nam Phong (1917-1935), Nữ giới chung (1918), Thực nghiệp dân báo(1920-1933), Khai hoá nhật báo (1921-1927), Hữu thanh tạp chí (1921-1924), Đông Pháp thời báo(1923- 1928), An nam tạp chí (1926-1930), Thần chung (1929-1930), Trung lập báo (1924-1933), Tân dân báo (1924-1925) Pháp Việt nhất gia (1927), Tiếng dân (1927-1943), Hà thành ngọ báo (1927-1929), Báo Đông -Tây (1929-1932), Phụ nữ tân văn (1929-1935), Kì lân báo (1928-1929), Văn minh(1926-1931)...
Từ năm I930 đến I945
Sang những năm 1930, báo chí Tiếng Việt có sự phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh khoảng 30 tờ báo và tạp chí có từ trước vẫn đang tiếp tục lưu hành thì có khoảng 180 tờ báo và tạp chí mới ra đời. So với trước đây số lượng các tờ báo xuất bản trong thời kì này tăng lên gấp đôi, đặc biệt bên cạnh báo chí hợp pháp phát hành công khai còn xuất hiện dòng báo bí mật của Đảng Cộng sản Việt Nam và dòng báo lưu hành trong các nhà tù của thực dân.
        Báo chí thời kì này phản ánh khá rõ nét tình hình kinh tế xã hội và chính trị tư tưởng đương thời. Đó là bên cạnh trào lưu Âu hoá và lối sống tư sản trong các đô thị là tin tức về các hoạt động cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng như cuộc thảo luậncủa Hải Triều và Thiếu Sơn về “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” [ Đời Mới-24/3-27/3/I933] ,  cuộc thảo luận của Hải Triều và Phan Khôi về “Duy vật và Duy tâm” [ Phụ nữ thời đàm- 8 và 29/I0/ I933]; cuộc thảo luận của Phan Khôi và Nguyễn Thị Chính  về “Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan” [ Phụ nữ tân văn- 7 và I4/7 và  4/8/I932], cuộc tranh luận về “Phổ thông đầu phiếu” trên báo Công luận năm 1932 và các bài về quyền bầu cử của phụ nữ...
            Thắng lợi của Mặt trận dân chủ Đông Dương trong cuộc đấu tranh đòi tự do báo chí, Pháp đã phải thừa nhận hiệu lực của Luật tự do báo chí ban hành năm 1881 được áp dụng ở Đông Dương. Đó là bộ luật quy định báo chí phát hành chỉ cần báo trước 24 giờ. Chính thắng lợi này đã làm báo chí giai đoạn 1936-1939 phát triển mạnh mẽ,  nhiều tờ báo cách mạng được phát hành công khai. Theo Daniel Hemery, Sở An ninh Đông Dương ước tính vào tháng 11/1938, chỉ riêng Nam Kỳ có tới 18 tờ báo cộng sản, trốtkit, hoặc thân cộng. Số in của báo tiếng Pháp giảm chỉ còn 30.580 bản trong khi số in của báo tiếng Việt là 153.000 bản. Tính đến ngày 1/1/1939 trên toàn cõi Đông Dương số báo tiếng Việt và song ngữ Pháp Việt là120 tờ trong khi số báo tiếng Pháp chỉ còn 69 tờ.[3]
        Thời kì từ năm 1939, do điều kiện chiến tranh, kinh tế suy thoái, mực và giấy là hai nguồn vật liệu phục vụ cho ngành in ấn trở nên khan hiếm và đắt đỏ đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngành xuất bản, trong đó có báo chí. Nhiều tờ báo phải đóng cửa hoặc giảm trang, in trên giấy xấu. Mặc dù vậy, do nhu cầu tìm hiểu tình hình trong nước và quốc tế tăng, độc giả ngày càng nhiều, tình hình phát hành báo chí vẫn được duy trì với một số lượng khá lớn. Tất cả báo chí cách mạng phải phát hành bí mật song cũng không vì thế mà báo chí cách mạng không phát triển. Tiêu biểu cho báo chí cách mạng thời kì này là các tờ Tạp chí Cộng sản, Cờ giải ghóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Kèn gọi lính, Mê Linh, Phá ngục, Kháng địch, Cởi ách, Chiến đấu, Tiên phong, Dân tộc, Tiếng súng khởi nghĩa…
         Dòng báo chí công khai cũng bị phân hoá thành nhiều khuynh hướng: báo chí thân thực dân như các tờ: Đông Pháp (ĐP), Tin mới, Đàn bà (ĐB), Tân Việt Nam, Nỗ lực. Báo chí cấp tiến như các tờ Ngày nay, Thanh nghị, Tri tân... Ngoài ra còn có một số tờ báo của nhóm Trốtkít như tờ Văn mới, Tân thời...,các loại báo văn học, tôn giáo và các loại báo chuyên biệt khác như báo thể thao, báo kinh tế, báo trẻ em... Một đặc điểm đáng chú ý là hầu hết các báo xuất bản thời kì này đều có dành riêng một mục cho phụ nữ hoặc có các trang phụ nữ như Công luận, Đông Pháp, Tân thời tuần báo (TT), Dân hiệp (DH), Nam Kỳ tuần báo (NKTB)... Đặc biệt thời kì này còn hình thành cả một dòng báo phụ nữ.
Năm 1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp, chính phủ Pháp do Reynaud cầm đầu nhanh chóng sụp đổ. Chính phủ mới do Thống chế Philippe Petain thành lập tuyên bố đầu hàng phát xít Đức. Một nhóm khác do tướng Charles de Gaulle lãnh đạo chạy sang Anh và thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp. Chính phủ bình dân của Pháp không còn tồn tại, Đảng Cộng sản bị giải tán, phải đi vào hoạt động bí mật. Việc nước Pháp bị Đức xâm chiếm ảnh hưởng mạnh mẽ đến những diễn biến chính trị tại Đông Dương. 
         ở Đông Dương, từ tháng 7/1939 chức vụ Toàn quyền Đông Dương cũng thay đổi từ một quan toàn quyền dân sự là Brevie chuyển sang cho một quan toàn quyền quân sự, tướng Catroux và sau đó là Đô đốc Jean Decoux. Pháp đã chuẩn bị cho tình trạng chiến tranh ở các nước thuộc địa. Hành động đầu tiên của chính quyền thuộc địa là ra sức đàn áp Đảng Cộng sản. Sắc lệnh ngày 28/9/1939 cấm ngặt tất cả hành vi tuyên truyền về Quốc tế III và các tổ chức có liên quan. Đảng Cộng sản, các đoàn thể và các nhóm liên quan đều bị giải tán. Thực dân Pháp đã quy định kiểm duyệt toàn bộ báo chí nước ngoài trong các khu vực thuộc địa của Pháp. Trong vòng 4 tháng cuối năm 1939, Pháp đã ký tới 10 Sắc lệnh và Nghị định về báo chí và liên quan đến báo chí. Giấy và mực in cũng được chính quyền quản lý chặt chẽ thông qua phòng kiểm duyệt Liên đoàn giấy. Năm 1943, Toàn quyền Đông Dương ra một nghị định mới về việc phát hành báo chí. Nghị định này quy định: khuôn khổ báo sẽ bị hạn chế để tiết kiệm giấy. Nếu báo xuất bản hàng ngày thì phải nghỉ ngày chủ nhật. Nếu phát hành ngày chủ nhật thì không được phát hành các ngày khác trong tuần, không được in báo trên giấy khổ 23 x 2000 cm2, nên dùng khổ báo không cần phải cắt giấy để tiết kiệm... [HP-1/5/1945]
         Ngay từ trước khi có sắc lệnh trên, một loạt tờ báo đã bị khám xét, bắt bớ và đóng cửa. Tờ Ngày mới bị đóng cửa ngày 26.8.1939, Dân chúng ngày 30/8/1939, Người mới ngày 5/9/1939, Thế giới ngày 13/9/1939, Đời nay ngày 29/9/1939. Trước tình hình đó Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo cách mạng, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, ra chỉ thị cho những người làm báo và các tờ báo Đảng rút vào bí mật.
         Ngày 23/9/1940, Nhật vào Đông Dương đặt thêm một ách thống trị mới lên xã hội Việt Nam và từng bước ép Pháp phải nhường cho Nhật một số quyền lợi về kinh tế chính trị, quân sự. Đồng thời Nhật cũng ráo riết tuyên truyền chính sách Đại Đông á, văn hoá Nhật... nhằm gây ảnh hưởng trong dân chúng. Nhật cũng thành lập văn phòng kiểm duyệt báo chí, ra thông báo về việc kiểm duyệt toàn bộ báo chí, xuất bản phẩm và các phương tiện tuyên truyền kể cả áp phích quảng cáo và các kịch bản... Dựa vào Nhật, một số đảng phái mới ra đời như Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Phục quốc... và đều ra báo để gây ảnh hưởng. Tháng 5/1941 quyết nghị thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh)
Phong trào Việt Minh phát triển, ở các vùng căn cứ địa cách mạng, báo chí cách mạng cũng được xuất bản góp phần tuyên truyền và vận động nhân dân như tờ: Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Cờ giải phóng... ở các địa phương cũng có báo cách mạng để vận động tuyên truyền nhân dân. Như báo Đuổi giặc nướccủa cơ quan tuyên truyền cổ động của Việt Minh Thanh Hoá, báo Hiệp lực, cơ quan cổ động của Việt Minh tỉnh Bắc Ninh ...



[1]McHale.Shawn Frederick (1995), Printing, power, and the transformation of Vietnamese cultture, 1920-1945, dissertation, Cornell University 

[2]  Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, vĩnh Sính, (2005) Từ Đông sang Tây,NXB Đà Nẵng, tr90

[3]Cao huy Thuần...Từ Đông sang tây.. tr88

Giới thiệu một bài báo đăng trên báo Đàn Bà mới năm I935.

Bạc bẽo thay nghề làm báo ở xứ này
 Tờ báo là một bó đuốc để tìm Chân Lý.
Người làm báo là kẻ cầm bó đuốc ấy, là kẻ thờ Chân lý một cách chánh đại quang minh, không sợ kẻ lớn quyền nhiều thế, bao giờ cũng muốn làm cho rõ trắng đen, dầu có phải gặp nguy hiểm cũng cam. Tóm lại người làm báo là kẻ có thể nói như Zola: " Tôi tố cáo đây nè!"
Tố cáo những kẻ lạm quyền.
Tố cáo những tội nhân của xã hội mà pháp luật chưa tìm ra được.
Tố cáo những vụ áp chế mà kẻ bị húng hiếp do ngắn cổ mà không kêu được tới các nhà cầm quyền. Nhà làm báo không để cho một việc gì còn được lẩn khuất trong só ( xó) tối.
Vì vậy mà ở các nước nghề làm báo là một cái quyền: quyền thứ tư trong nước. Tờ báo ở Âu Mỹ là một sức mạnh. Chính nhờ cái sức mạnh của báo giới đã bênh vực cho mình mà quan ba Dreyfus ở Pháp vốn bị xử oan, bị khép lầm vào tội phản quốc, sau được luật pháp xét xử lại, tuyên bố ông vô tội. Ta còn thấy cái sức mạnh của báo giới làm cho nội các của nước Pháp phải đổ nhào sau vụ án Dreyfus và chính trị nước Pháp xoay về phía tả. Ở bên Mỹ, Hearst, ông vua làm báo bị Nội các Tardieu trục xuất ra khỏi nước Pháp một cách vô lý, sau về nước cổ động dân Mỹ công kích nước Pháp dữ quá đến đỗi nghị định trục xuất ông Hearst phải hủy đi.
Nhưng nếu ở các nước nghề làm báo là một sức mạnh mà kẻ cầm quyền phải vì nể thì ở xứ Đông Dương này, ngựơc lại, nghề làm báo mới bạc bẽo làm sao!
Không những báo giới quốc âm đã bị khép vào một chế độ riêng về mặt chánh trị, đến báo giới viết bằng chữ Pháp cũng phải giảm thế lực trước những kẻ lớn quyền mạnh thế.
Vụ án Populaire đã tỏ rõ sự ấy. Đây chúng tôi không tường thuật vụ ấy vì luật pháp không cho thuật những vụ án phỉ báng. Chúng tôi chỉ tỏ ít cảm tưởng đối với bạn đồng nghiệp Bonvicini chẳng may đã đụng chạm tới ông vua tiền tỉnh Bạc Liêu là ông Hội đồng Trần Trinh Trạch
Sau khi Tòa án đại hình tuyên bố không có quyền xử vụ án ông Trần kiện báo Populaire, dầu ông này đã làm Hội đồng quản hạt, đã có chân trong Hội đồng tư vấn, có Bắc Đẩu Bội tinh, sau khi tòa đưa trả vụ này cho Tòa Trừng trị, thì chúng tôi chắc thế nào ông Bonivicini cũng bị án rồi.
Vì ở Tòa Trừng trị, điều luật thứ 35 trong Đạo luật năm 1881 không cho viện bằng cớ ra, sự tuyên phạt đã thành một lẽ dĩ nhiên đi rồi. Tòa chỉ cần xét xem bị cáo nhơn có phải vì công tâm mà viết bài báo phạm tới danh giá bên nguyên không? Thì các người làm chứng đều công nhận rằng ông Boncini vì công tâm mà chỉ trích ông Trần Trinh Trạch, rằng ông chủ bút báo Populaire là một người chân chánh.
Nhưng ông Biện lý Serrau khép tội trong vụ án này nói rằng: Dầu có vì công tâm mà chỉ trích bên nguyên ông Bonvicini cũng không được trắng án nào; sự công tâm chỉ là trường hợp được giảm đẳng ( circonstaince atte'nuante) mà thôi.
Thế nghĩa là ở tòa trừng trị, luật pháp đã sẵn sàng để phạt kẻ đã viết báo phạm tới danh giá người ta, dầu là một kẻ viết báo chân chánh, muốn tố cáo việc ám muội, hay một kẻ viết báo chuyên môn làm nghề "thầy hót" cũng để ngang hàng với nhau cả. Quan Biện lý và Quan chánh á trong vụ Populaire cũng chỉ làm đúng pháp luật mà thôi, chúng tôi biết vậy lắm. Nhưng đạo luật về tôi phỉ báng như vậy đối với nghề viết báo mới khắt khe làm sao!
Rồi đây, có một ngày kia, có một thằng điếm móc túi - nếu có muốn, cũng có thể đem một nhà báo ra trước pháp xin được bồi thường danh giá vì nhà báo đó đã đăng tin...nó ăn cắp.
Nghề làm báo như vậy thì còn gì đáng gọi là một quyền nữa?
Tờ báo là mảnh gương phản chiếu dư luận của quần chúng.
Quần chúng bị điều gì áp bức ; sự công phẫn bị đè nén trong lòng không dám lộ ra ngoài, nhưng có một ngày kia nó sẽ bung ra. Khi đó nó sẽ như một thùng thuốc đạn đã bị đè nén lâu rồi, khi nổ ra gây sự hại không phải ít. Rồi nó sẽ gây ra lắm việc đáng tiếc như việc ngày 6 Fe'vrier năm ngoái ở Pháp vậy.
Nay nếu pháp luật hay nhà cầm quyền không cho tờ báo chiếu ra ngoài ánh sáng sự công phẫn ấy thì có khác nào một việc thất sách, một việc thất sách rồi đây khó mà chữa sửa được. Trạng sư Gallet bênh vực cho ông Bonvicini, có tỏ cái nhiệm vụ quan trọng của nhà báo như vầy:
" Dư luận của công chúng mà báo giới làm tiêu biểu, là một sự mà ta không thể nhãng bỏ được, vì sự ấy làm ta tránh được nhiều việc tai biến. Báo giới báo trước cho ta biết những sự nguy hiểm khó tránh nó sắp xảy tới nơi.
Các ngài không thấy ở bên Pháp đó sao? Chẳng phải Báo giới đã kêu: "Phải coi chừng" mỗi khi mà dư luận công chúng bị đè nén sắp sửa bung ra bằng sự biểu tình ghê gớm.
Người ta thấy rằng nhờ Báo giới mà nước Pháp đã tra xét ra được bao nhiêu vụ ám muội nó đem nước Pháp chỉ còn hai bước thì đến cuộc cách mạng. Nếu người ta bịt miệng Báo giới thì sẽ ra sao?"
Nhưng than ôi ! Những lời lẽ hùng hồn của Trạng sư Gallet không đủ làm cho tòa lưu tâm đến cái nghề làm báo ở xứ này, một cái nghề có lợi ích cho chính phủ, cho trật tự trong nước, đáng hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Trạng sư biết rằng quan tòa không thể tha cho ông Bonvicini vì luật pháp đã bắt buộc thế, nên ông Gallet xin tòa xử hết sức nhẹ cho bị cáo nhơn.
Vậy mà sau khi nghị án có tới một giờ đồng hồ, tòa tuyên phạt ông chủ nhiệm báo Populaire 1000 quan tiền, và bồi thường danh giá cho bên nguyên 3000 đồng.
Ba ngàn đồng phạt bồi thường danh giá, 1000 quan tiền phạt! những người đi xem xử vụ ấy đều tỏ ý ngạc nhiên vì có lẽ từ trước tới giờ họ chưa thấy một nhà báo nào bị xử nặng đến thế.
Nhưng thôi, luật pháp đã tuyên án, không còn có thể bình phẩm được nữa...

(Bài đăng ở báo Đàn bà mới năm 1935)
Theo: http://chuyencuachi.blogspot.com

NGÀY BÁO CHÍ

Hôm nay ngày báo chí Việt Nam ! Báo chí Việt Nam vẫn quan tâm đến những cái tin này sao? Phi Thanh Vân mang bầu 2 tháng. Để nói đến mức độ quan tâm của Báo chí về một vấn đề gì đó người ta thường nói đến cụm từ "tốn giấy mực" nhưng hiện nay báo mạng không phải phải tôn giấy, cũng chẳng hề tốn mực nên người ta cứ mái thoải đưa những tin đại loại như http://baodatviet.vn/Home/vanhoa/Thuy-Top-khoe-nguc-khung-truoc-bien/20116/151046.datviet  hay như Bá Chi mang bầu với Trần Quán Hy?  rồi đến http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Cuong-Do-la-dua-Ha-Ho-di-xem-khieu-vu/47009 Có lẽ cần phải "tuyên giáo" ngay !
-NVH-

20 tháng 6, 2011

BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT VÀ VẤN ĐỀ MÃI DÂM TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI THUỘC ĐỊA

   Một khảo sát trên tư liệu báo chí về vấn đề mãi dâm đã cho thấy "sức nóng" của vấn đề này trong xã hội "chuyển đổi"-NVH.
Đặng Thị Vân Chi

(Bài đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 1 năm 2008 từ tr 34 đến tr 43)
         Vấn đề mãi dâm là một vấn đề được đề cập khá nhiều trên báo chí trong thời kì từ năm 1930. Có thể nói đây là vấn đề xã hội liên quan tới nhiều khía cạnh của cuộc sống phụ nữ: vấn đề nhân phẩm, vấn đề việc làm, vấn đề đạo đức, vấn đề sức khoẻ... Theo sự khảo sát của chúng tôi, vấn đề mãi dâm được báo chí đề cập đến lần đầu tiên là trên báo Phụ nữ tân văn  ngày 12.12.1929. Lúc này, báo chí mới đề cập một cách dè dặt “Có nên trừ bỏ cái nghề mãi dâm không” xuất phát từ nhận thức đây là một cái nghề có thể mang lại bệnh tật, dẫn đến chết yểu và nhục nhã. Sự xuất hiện ngày càng nhiều nhà chứa và các cô gái sống bằng nghề mãi dâm trong những năm sau này đã khiến dư luận xã hội  ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề này.
Trong những năm 1930 báo chí bắt đầu có những bài viết nghiêm túc trình bày thực trạng đời sống của những người phụ nữ phải bán thân nuôi miệng, tìm hiểu nguyên nhân của nạn mãi dâm và cố gắng đề xuất  các biện pháp giải quyết.
1. Tình trạng mãi dâm trong xã hội và thân phận của những người phụ nữ làm nghề mãi dâm.
Vào những năm 1930, vấn đề mãi dâm ở Việt Nam đã trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Các báo đã mô tả tình trạng “lúc nhúc xóm bình khang, đầy rẫy phường bán phấn” trong các đô thị Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. “Nếu đi qua các ngõ Sầm Công ở Hà Nội, phố Hạ lý Hải Phòng, phố Bến Củi Nam Định... ta sẽ thấy một cảnh tượng đau lòng, một sự mãi dâm đê tiện hơn hết trong sự mãi dâm, vì tôi chắc không có nước nào mà nghề mãi dâm lại đê tiện quá hơn nghề mãi dâm ở nước ta: Họ ra tận đường phố lôi kéo khách hàng, họ nói những câu, hát những giọng khiêu dâm tục tằn...” [CL-7.3.1932].
Dưới chế độ thuộc địa, chính quyền thực dân duy trì chế độ mãi dâm để thu thuế. Vì vậy trong xã hội nảy sinh hai loại gái mại dâm. Một loại có giấy phép hành nghề và phải nộp thuế cho chính quyền thuộc địa, một loại hành nghề tự do mà báo chí thường gọi là loại “gái không có giấy”, “gái đi ăn mảnh”, “gái lậu” (Lậu thuế). Hầu hết gái mãi dâm ở Việt Nam thuộc loại không có giấy phép và tự kiếm khách. Giải thích vấn đề này, một số tác giả cho rằng do quan niệm đạo đức truyền thống mà cả người mua dâm lẫn người bán dâm thường không muốn lộ mặt, công khai. Đối với người mua dâm, về tâm lý họ cảm thấy xấu hổ khi vào các nhà chứa hợp pháp.
 Ở Sài Gòn có khoảng 400 gái mãi dâm "đóng thuế" thì có tới hàng ngàn gái mãi dâm "lậu thuế". Khách hàng của những “gái lậu” này là những người nghèo nên nơi "hành nghề" thường là những “xó tối, ngõ hẻm”, “vườn rậm đồng không” chẳng có vật gì che đỡ với “thứ gió sương lạnh buốt”, đầy uế khí và rất dễ nhiễm bệnh. Do đó, tình trạng mắc bệnh hoa liễu trong gái mãi dâm rất cao. Theo điều tra của “Uỷ ban xét các vấn đề mại dâm” thì năm 1933 ở Sài Gòn, một bệnh viện chuyên chữa trị các bệnh hoa liễu đã phải chữa trị cho hơn 20.000 người [ĐBM-16.2.1935]. Một bệnh viện chuyên chữa bệnh lậu “một ngày không dưới 30 đàn ông đến chữa bệnh, đàn bà là 150 người” (chỉ là chữa bệnh lậu, chưa kể các bệnh khác). Ở bệnh viện Bạch Mai thì cứ 100 người làm nghề mãi dâm, thì có đến 70 người mắc bệnh [PNTV-16.6.1933].  Còn ở Hà Nội cũng có khoảng 5000 gái mãi dâm mà trong đó tới 99% mắc bệnh hoa liễu [VB-3.3. 1937]. Tình trạng này còn biểu hiện ở chỗ trên các báo nhan nhản những quảng cáo thuốc chữa bệnh lậu. Và mãi dâm là một vấn đề bức xúc của toàn xã hội.
Tình cảnh của những người làm nghề mãi dâm hết sức đau lòng. Có người vì nhà nghèo phải đi ở từ nhỏ, lớn lên bị chủ ép phải bán mình; có người phải bán thân vì giao kèo vay nợ... Với những cô gái phải sống trong các nhà chứa thì tất cả đều phải “sống dưới quyền mụ chủ một cách đê nhục, mất hết tự do, có khi bị đánh đập, chửi mắng là thường’’[ĐP- 20.12.1936]. Các báo cũng viết về “Một hạng phụ nữ phải làm hai nghề” do đồng lương quá thấp không đủ sống. Đó là những người phụ nữ làm ở các nhà hàng giải khát, ăn uống, [ĐBM-20.5.1935].
 Nhiều tờ báo đã thực hiện các bài phóng sự “Điều tra cái nạn mãi dâm” [ ĐBM-8.6.1936], “Vấn đề đĩ điếm ở xã hội ta” [PNTV-7.1.1932] “Bề trái Sài Gòn-Lạc bước vào xóm Bình Khang” [CL-17-19.8.1932], Gái truỵ lạc [VB-3.7. 1937]... Qua các bài báo trên, cuộc đời của các cô gái phải làm nghề mãi dâm vô cùng nhục nhã. Hầu hết những cô gái hành nghề "lậu" không có giấy phép không dám đòi giá. Khách trả bao nhiêu biết vậy, nhiều khi bị quỵt tiền. Cô nào dám đòi hỏi thì không bị khách đánh đập dã man cũng bị “mắng chưởi tơi bời”... Những người phụ nữ làm nghề mãi dâm không những bị hành hạ về thể xác,  mà họ còn phải chịu nỗi khổ tâm về tinh thần. Bởi vì họ bị coi là nguyên nhân mọi tội lỗi của xã hội: từ việc các gia đình không hạnh phúc, các ông chồng bỏ bê vợ con... đến thanh niên quen sống dựa dẫm, không có lý tưởng nên sa vào vòng truỵ lạc... Các báo cho rằng xã hội đã “buộc muôn nghìn tội lỗi vào đám phụ nữ giang hồ, họ nguyền rủa rồi tìm ra bao lời xảo trá để bào chữa cho công việc xấu xa” mà họ đã làm. 
Trong những năm cuối thập kỷ 30 và đầu những năm 1940 của thế kỷ XX, tại các đô thị một biến tướng khác của hình thức mãi dâm là “hát cô đầu” mà báo chí cho là đã trở thành “một cái ung nhọt”  của xã hội. Báo Trung Bắc chủ nhật năm 1942 dành cả hai số chuyên san khảo cứu về lịch sử “hát ả đào”, hiện trạng của các nhà hát cô đầu, thực trạng đời sống của các cô đầu trong các thành phố lớn và hậu quả của nó đối với xã hội, đặc biệt là “Nạn hoa liễu do các nhà cô đầu gây ra” [TBCN-27.9.1942]. Các bài báo trên TBCN cho biết ở vùng ngoại ô Hà Nội năm 1938 có tới 216 nhà hát cô đầu và gần 2000 cô đầu. Theo ước đoán của các tác giả thì cho đến năm 1942 số đó tăng gấp 20-30” thậm chí có thể lên tới “ 60 -70 lần”. Bài báo cũng giới thiệu công trình nghiên cứu của Henri Virgitti và bác sĩ B. Joyeux về tình trạng nhiễm bệnh hoa liễu ở Hà Nội. Hai tác giả này cho biết ít nhất ở Hà Nội vào những năm 1938 có khoảng 250 nhà hát cô đầu với khoảng 1100 người và số phụ nữ sống bằng nghề mãi dâm có từ 1500 tới 2000 người. Hầu hết trong số họ mắc bệnh hoa liễu mà chính phủ thực dân không thể kiểm soát được bệnh tật và sự lây lan của nó. Còn ở Vinh, một thị xã nhỏ cũng có tới 8 nhà hát cô đầu với khoảng hơn 300 cô đầu. Các cô đầu ở Vinh tiếp khách cả ngày, cả đêm mà hầu như không hề được kiểm tra, khám xét về tình trạng bệnh tật. Nhiều “nhà hát” bắt cả trẻ em vị thành niên (14, 15”) tiếp khách. Và hầu hết số cô đầu này đều mắc bệnh hoa liễu [TBCN-27.9.1942]. Dưới tiêu đề “Nói có sách, mách có chứng” báo Trung Bắc chủ nhật số chuyên san đã trích đăng một loạt các ý kiến của các tờ báo khác về thực trạng đời sống của các cô đầu, tình trạng tha hoá của các cô đầu về đạo đức như lừa lọc, ăn trộm, ăn cắp, gây gổ đánh chửi nhau... Nguyễn Doãn Vượng đã nhận xét về tác hại của việc đi hát cô đầu là “hầu hết những kẻ đi hát bây giờ đều là thanh niên... do đó sự kém sút về sức khoẻ, sự truỵ lạc về tinh thần, những bệnh hoa liễu cũng từ đó mà về thăm gia đình và vợ con những thanh niên đó; lại còn bao nhiêu kẻ trong cơn mê muội đớn hèn lỗi đạo vì đi hát, ăn trộm, ăn cắp vì mê hát và khuynh gia bại sản vì những cô đầu hát”... [TBCN-27.9.1942].
2.Nguyên nhân của vấn đề mãi dâm.
          Năm 1932, trước tình trạng nạn mãi dâm ngày càng phát triển, báo Công luận phê phán: xã hội chỉ có “lắm tiếng khinh rẻ, nhiều lời doạ nạt mà không thấy có một ông hoặc bà trí thức đạo đức nào truy nguyên từ nơi đâu xã hội tư tài lại có hạng người bán máu suốt đêm để đổi chác vật chất che thân, lấy thực phẩm nuôi miệng”. Mặc dù bài báo bị kiểm duyệt cắt bỏ nhiều đoạn nhưng cũng cho thấy quan điểm của tác giả về nguyên nhân của nạn mãi dâm trong xã hội tư hữu tài sản là vì: có hạng người giàu có “tiền sài không hết, đổ ra mua những cuộc hoa nguyệt thâu canh”, nhưng cũng có hạng người thì “thiếu ăn, mặc, làm mướn mệt nhọc suốt ngày mà không đủ nuôi miệng, con ma đói kêu gọi, nạn kinh tế áp bức mới xui nên làm việc nhỡ nhàng nhơ nhớp ấy.” Và “sở dĩ có hạng phụ nữ ra thân làm đĩ” bị “tiếng đời dị nghị chê bai...xã hội mỉa mai, miệt thị, nhà đạo đức luân lý gọi là thứ vô giáo dục, kém đạo đức làm rối loạn lễ giáo phong tục” đó, “không phải tội lỗi nơi họ” mà là “tội ác của xã hội” [CL-7.3.1932].
          Năm 1934, các báo Phụ nữ tân văn và báo  báo Việt dân đã làm cuộc phỏng vấn điều tra về vấn đề mãi dâm. Hầu hết những phụ nữ làm nghề mãi dâm đều nói rằng họ vì sinh kế khó khăn, vì bị lợi dụng, vì cuộc mưu sinh mà phải “cam bề tủi nhục, chịu mang lấy cái nghề xấu xa này” [HCTV-20.11.1934]. Phụ nữ tân văn phân tích: nạn mãi dâm là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, có người giầu, kẻ nghèo, nhất là trong thời kì kinh tế khủng hoảng, người lao động bị thất nghiệp, nạn mãi dâm càng phát triển. Trong xã hội có giai cấp đó, phụ nữ trở thành người bị lợi dụng để đem lại khoái lạc cho những kẻ có tiền của, “biết bao nhiêu là đàn bà, con gái lao công, thợ cu ly, bồi, may, đứng bán... chỉ vì mưu sanh, chỉ vì bị ép uổng, chỉ vì không được luật pháp ủng hộ mà phải làm đĩ”. Bài báo kết luận: xã hội có giai cấp thì có nạn mãi dâm, kinh tế khủng hoảng, nhiều người thất nghiệp thì mãi dâm càng phát triển. Cần phải vạch cho xã hội rõ nguyên nhân của nạn mãi dâm không phải là do luân lý suy đồi, phong tục bại hoại như các báo ca thán... Trong tình trạng kinh tế khủng hoảng ở Việt Nam, một số lớn phụ nữ lao động đang có nguy cơ trở thành gái mãi dâm [PNTV-16.8.1934].
         Báo Hoàn cầu tân văn đặt vấn đề “Mãi dâm có phải là một chức nghiệp không ?” với một hàm ý tố cáo chế độ thuộc địa ở Đông Dương. Bài báo cho rằng ở Việt Nam đó là một nghề bởi chính phủ thực dân cho hoạt động hợp pháp và thu thuế. Và phần đông phụ nữ cần đến “chức nghiệp” này là hạng người nghèo khổ. Dưới nhan đề “Vấn đề mãi dâm” báo Phụ nữ tân văn năm 1933 phân tích 4 nguyên nhân dẫn dến việc người phụ nữ phải làm nghề mãi dâm. Đó là: do áp chế (vì nhà nghèo phải đi ở, rồi bị cưỡng bức, hoặc cha mẹ nghèo phải vay nợ chủ đất, khi con gái đến tuổi phải bán đứng cho ông chủ nếu không sẽ bị đuổi nhà), do bị dụ dỗ (ham muốn ăn diện, không người chỉ bảo), do có hạng Tú Bà luôn đi lừa gạt con gái, do có hạng công tử nhà giầu mà “phần lớn đeo mặt nạ xa hoa, học vấn ở ngoài” [PNTV-22.6.1933]. Còn trên báo Đông Pháp ngày 20.12.1936, Văn Tâm giải thích: Có ý kiến cho rằng lúc đầu nó chỉ là một nghi lễ tôn giáo mà ở đó nữ giáo sĩ hiến thân cho thượng đế hay một nữ dâm thần giao hợp với một người đàn ông đi đường để tế lễ... Mặc dù có thể chưa hẳn đã đúng nhưng theo một vài vở kịch La Mã thì nghề này có từ cách đây hàng ngàn năm rồi. Cũng có ý kiến cho nghề mãi dâm có nguồn gốc từ thú vui thưởng thức âm nhạc của những gia đình giàu có ở Trung Quốc cổ đại. Những gia đình này nuôi ca nữ trong nhà làm hình thành nên tầng lớp kỹ nữ còn gọi là gia kỹ. Sau này các nguyên nhân này mất đi thì xuất hiện các nguyên nhân kinh tế. Đó là do nghèo túng, người phụ nữ phải bán thân nuôi miệng, ngoài ra còn có nguyên nhân vì dục tình, do lầm lỡ sa chân vào nghề này, cũng có người do lười biếng mà lại muốn ăn chơi xa xỉ. Trọng Quỳnh trên Đông Pháp năm 1940 đã phân tích quá trình “từ ngây thơ đến bán dâm” của một số cô gái quê nghèo vì quá đua đòi "theo mới", kém suy nghĩ, yếu linh hồn, đã bỏ nhà ra đi và cuối cùng sa vào con đường lầm lạc. Bài báo cho rằng con đường từ một cô gái quê đến một cô gái bán dâm là rất gần và vạch rõ sự cám dỗ của cuộc sống tiêu thụ nơi thành thị đã biến một cô gái quê trong trắng trở thành một cô gái làng chơi với bộ cánh tân thời choáng lộn, sánh vai cùng các công tử ra vào tiệm khiêu vũ, khách sạn, nhà hát...[ĐP-23.3.1940]. Cũng có ý kiến cho rằng vì chế độ hôn nhân ép gả, hôn nhân không có tình yêu nên thanh niên tìm đến các nhà chứa để thoả mãn nhu cầu sinh lý...
          Nhìn chung các ý kiến đều cho nạn mãi dâm phát triển là do nguyên nhân kinh tế, là sản phẩm của xã hội có giai cấp và của chế độ tư bản. Những nguyên nhân khác chỉ là phụ.
3. Báo chí với việc đề xuất giải pháp cho vấn đề mãi dâm
         Trước tình hình nạn mãi dâm phát triển, báo Đông Pháp cho biết “nước ta trong khoảng ít năm gần đây cũng có nhiều người nhất là những nhà ngôn luận có quan tâm đến vấn đề phụ nữ đều hô hào thảo luận để mong các nhà cầm quyền chính trị, các nhà săn sóc đến vấn đề xã hội kiếm cách bài trừ nạn mãi dâm ở xã hội ta” [ĐP-20.12.1936]
         Các tờ báo phụ nữ là những tờ báo quan tâm nhiều đến vấn đề này. Phụ nữ tân văn liên tiếp lên tiếng: "Có nên trừ bỏ cái nghề mãi dâm không” [PNTV-12.12. 1929], “Bao giờ xứ này bỏ đặng nhà điếm” [PNTV-24.4.1930], “Nạn mãi dâm” [PNTV-16.8. 1934].., Báo Phụ nữ thời đàm, Đàn bà mới tìm hiểu về “Số phận của hạng chị em lỡ bước” [PNTĐ-15.1.1931], “Ai đẩy chị em vào vòng truỵ lạc” [PNTĐ-11-12.5. 1931],  ,“Thân phận chị em  hồng lâu”... [PNTĐ-13.5.1931] “Một hạng chị em phải làm hai nghề [ĐBM-20.5.1935], “Cái nạn mãi dâm” [ĐBM-8.6.1936],.. Phụ nữ tân tiến kêu gọi “Chị em ta nên trừ cái nạn mãi dâm” [PNTT-1.4.1933]... 
    Các báo khác như: Hoàn cầu tân văn, Thời báo, Việt báo, Công luận, Đông Pháp... cũng quan tâm và đề xuất cần giải quyết nạn mãi dâm ra sao? Có thể bài trừ được không?... Các ý kiến đều phản đối chế độ mãi dâm, bày tỏ sự lo lắng trước tình trạng bệnh hoa liễu lây lan trong xã hội mà họ cho rằng sẽ làm yếu giống nòi, hạ thấp nhân cách phụ nữ... Nhưng cũng có ý kiến cho rằng “nếu con người trên trái đất này còn đứng dưới chế độ phong kiến, chế độ phú hào” thì đó là một việc không thể bài trừ. Bản thân các cô gái khi đã trót mang nghiệp này vào thân sẽ trọn đời theo nghiệp ấy vì định kiến xã hội mà họ không thể hoàn lương... 
     Có ý kiến lại cho rằng mãi dâm tồn tại là do nhu cầu khách quan, phần đông những người lao động nghèo nên không lấy được vợ mà họ cũng có nhu cầu sinh lý như mọi người... Ngoài ra còn có những người bất mãn về đường tình duyên, nếu không có nghề này họ sẽ trở thành những người gian dâm (!) [ĐP-20.12.1936]. Hoặc có ý kiến cho rằng có nghề mãi dâm vì có người mua dâm, vì giáo dục gia đình còn có chỗ khiếm khuyết, vì chế độ hôn nhân ép gả, vì phụ nữ không có việc làm...
Hầu hết các ý kiến đều thống nhất cho rằng: vấn đề mãi dâm là một vấn đề xã hội, một vấn đề không dễ giải quyết.  Muốn cấm nghề mãi dâm “ trước hết phải cải tạo xã hội, cải tạo kinh tế” [ĐP-20.12.1936], phải “giải quyết từ căn nguyên sự tổ chức xã hội”...Trong khi chưa thể bài trừ được ngay thì cần “phải tìm cách ngăn ngừa sự hại của nó”. Có ý kiến cho rằng cần phải kiểm soát việc hành nghề, kiểm tra về mặt y tế... đối với gái mãi dâm [ĐBM- 16.2.1935], phổ biến cách chữa các bệnh do nạn mãi dâm gây ra... Và để hạn chế nạn mãi dâm phát triển, trước hết tìm việc làm cho phụ nữ, đẩy mạnh giáo dục gia đình và quan trọng là hạn chế người mua dâm “cổ động đừng ai dùng thứ đó nữa” anh em thiếu niên ai cũng luyện tập lấy lòng quả quyết tự chủ” vì “bài trừ nghề mãi dâm là bổn phận của anh em đó”. Tác giả đề nghị phải có sự hợp tác của toàn xã hội trong việc vận động bài trừ nạn mãi dâm bằng cách “tổ chức nhiều cuộc nói chuyện về cái hại son phấn để giắt(dắt) nhau xa cái xóm bình khang, cũng như chỉ vào bát thuốc độc bảo nhau rằng “này thuốc độc đấy, đừng ai uống” [TB- 31.1-1.2.1931]. Phụ nữ tân tiến đề nghị “mãi dâm còn lưu ngày nào thì ta đánh đổ cho tới kì cùng”. Để làm được điều đó phụ nữ cần “phải có năng lực, phải bồi bổ tinh thần, đào luyện tư tưởng xa đường mộng mị, tìm đường thực nghiệp”, khuyên răn dạy bảo nhau. “Đối với hạng vô giáo dục, ta phải làm sao cho họ được giáo dục, với người không có nghề ta phải làm cho có nghề, có nghiệp”, còn hạng có học vấn mà sa ngã thì lấy lẽ phải trái phân giải cho rõ ràng... [PNTT-1.4.1934].
         Đối với tình trạng “hát cô đầu”- một dạng của mãi dâm, báo Trung Bắc chủ nhật làm một cuộc trưng cầu ý kiến về các giải pháp nhằm khắc phục và hạn chế những tác hại của nó đối với xã hội đã nhận được 1061 ý kiến gửi đến góp ý. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng cần phải bắt các cô đầu đi khám bệnh để ngăn chặn tình trạng bệnh hoa liễu lây lan trong xã hội. [TBCN-27.9 & 4.10.1942]
         Trong thời kỳ này, Đảng cộng sản cũng đề ra chủ trương “chống chế độ nhiều vợ, phản đối chính phủ Pháp duy trì và lợi dụng chế độ làm đĩ để thu thuế” [42, tr66,67]. Vì vậy, trên các báo Đảng và  trên truyền đơn của Đảng cộng sản thường đề ra các khẩu hiệu như: chống nạn mãi dâm và tuyên truyền vận động phụ nữ tham gia vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một xã hội mới văn minh, bình đẳng. Đây được coi là con đường thiết thực nhất để xoá bỏ nạn mãi dâm trong xã hội, nâng cao địa vị của phụ nữ cũng như tôn trọng 
nhân cách của họ.
 Kết luận
      Từ những năm 1930, cùng với sự phát triển của báo chí tiếng Việt, nhiều vấn đề xã hội được báo chí quan tâm, trong đó có vấn đề mãi dâm. Vấn đề mãi dâm trên báo chí đã phản ánh thực trạng mãi dâm- một thực trạng đen tối, đáng lo ngại và đời sống tủi nhục của tầng lớp phụ nữ hành nghề mãi dâm trong xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa. Không chỉ dừng lại ở đó, các nhà báo đã cố gắng tìm hiểu nguồn gốc của hiện tượng mãi dâm trong xã hội, cũng như những nguyên nhân dẫn đến nạn mãi dâm. Đặc biệt báo chí thời kỳ này đã đề xuất những giải pháp cho việc bài trừ nạn mãi dâm và hạn chế những tác hại do nạn mãi dâm gây ra.
     Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, vấn đề mãi dâm là một vấn đề xã hội  rất phức tạp, không đơn giản chỉ là vấn đề kinh tế và có thể giải quyết nó bằng một cuộc cách mạng xã hội. Bên cạnh đó, những vấn đề đặt ra trên báo chí tiếng Việt trước cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa ra những gợi ý đáng quan tâm về việc tuyên truyền chống nạn mãi dâm, cũng như vai trò của báo chí trong việc bài trừ nạn mãi dâm và xây dựng xã hội mới.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1.Báo Phụ nữ tân văn (1929-1935) Viết tắt : PNTV
2. Phụ nữ thời đàm (1930-1934)                     PNTĐ
3. Phụ nữ tân tiến (1932-1934)                       PNTT
4. Đàn bà mới (1934-1937)                             ĐBM
5. Thời báo  (1931)                                          TB
5 Công luận(1916-1939)                                  CL
6. Việt báo (1936-1942)                                  VB
7. Hoàn cầu tân văn (1933-1938)                     HCTV
8. Đông Pháp (1925-1945)                              ĐP  
9. Trung Bắc chủ nhật(1940-1945)                   TBCN
10. Đảng cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, t4, NXB Chính trị Quốc gia.
 Theo: http://chuyencuachi.blogspot.com.