13 tháng 6, 2011

CLAUDE LEVI-STRAUSS VÀ DI SẢN CỦA ÔNG TRONG NHÂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI (phần 2)

Albert Doja(*)

Người dịch: Nguyễn Văn Sửu

Đại học Quốc gia Hà Nội

Điểm quan trọng vẫn là sự giải phóng tiếp cận cấu trúc khỏi mô hình ngôn ngữ, nghĩa là một sự chuyển dịch từ ngữ nghĩa học xoay quanh tín hiệu sang cái mà chúng ta có thể gọi là một “bút chiến phổ quát” (general agonistics), thuật ngữ mà Jean-Francois Lyotard sử dụng để mô tả các trò chơi ngôn ngữ trong tác phẩm Postmodern Condition (1979: 23), song ở đây hiểu là một lý thuyết trò chơi về các hệ thống xã hội và như một thói quen của các thực hành chiến lược và cạnh tranh. Khái niệm trò chơi, mà tầm quan trọng của nó không được những người phê bình nhận thức một cách đầy đủ, nhằm vào tính thông minh của các thói quen, vì thế tạo cho nhân học có khả năng đạt được một hình thức hợp lý mới. Như nó đã được chứng minh là vượt qua cấp độ ngữ nghĩa học trong giải quyết vấn đề tính trước hay sau của ngôn ngữ hôn nhân liên quan đến ngôn ngữ phát âm trong thực tiễn là việc chuyển dịch từ tự nhiên sang văn hóa, cũng không phải là không cấp thiết phải vượt qua cấp độ ý thức để giải quyết sự tiến thoái lưỡng nan có tính nhận thức luận về nhị nguyên luận giữa chủ thể và khách thể. Rõ ràng là vấn đề lý thuyết của trò chơi và các quy định đã phác họa bước vượt qua một sự phản đối khác đầy tranh luận này.

Levi-Strauss đã tạo dựng nghiên cứu khoa học của mình thông qua sự khác biệt của cái cần thiết và ngẫu nhiên, của sự kiện và cấu trúc. Trong việc này, phép đẳng lập (parataxis) nhấn mạnh đến tính đứt đoạn và đoạn tuyệt thể hiện một cách biểu tượng về tai ương. Hơn nữa, sự phát triển của một số khuynh hướng mới và mới được tiếp thêm sinh lực về dạng thức cấu trúc, được gộp lại trong khái niệm về sự biểu đạt phù hợp của Levi-Strauss đã tạo nên một nguyên tắc quy định về dự án nhận thức luận cấu trúc và động năng hình thái học (Scubla, 1998; Marandam, 2001), đã cho thấy cơ hội về một dân tộc chí cải tiến làm cho việc sử dụng tốt hơn lý do quy nạp và giả thuyết, sự phản ánh và tính có có thể diễn dịch được của các mã số có thể chuyển đổi liên quan đến các thực tiễn liên văn hóa và xuyên biên giới. Dự án lý thuyết có cảm hứng từ công thức quy chuẩn có thể cho thấy rằng nhân học cấu trúc cũng quan tâm đến các qúa trình xung đột xã hội, biến đổi, thói quen và tác nhân, những vấn đề tưởng như bị các khía cạnh cơ bản trong lý thuyết của Levi-Straus bỏ quên.

Phạm vi của Nhân học

Lấy các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã làm nền tảng, các nhà triết học thời kỳ Khai sáng và Phục hưng đã dựng nên những nền tảng mà cho đến hôm nay vẫn còn là các định hướng tư tưởng. Decartes tạo dựng quan điểm tâm lý (mentalist position), lập luận rằng trí óc con người vận hành theo các nguyên tắc riêng của nó và đi tới tích trữ trong các ý tưởng bẩm sinh. Âm hưởng của quan điểm này còn được tìm thấy trong các ghi chép của Noam Chomsky và Jerry Fodor, tự nhận là những người “nativists”. Những nhà thực nghiệm học (empiricists) người Anh do Locke dẫn đầu đã đưa ra một quan điểm trái ngược, cho rằng ban đầu trí óc của con người như là một tờ giấy trắng, trải nghiệm khắc các ý tưởng vào đó và các ý tưởng này có liên hệ với nhau. Các nhà tư tưởng theo thuyết ứng xử (behaviourists) thế kỷ 20 như nhà vật lý học người Nga, Ivan Pavlov, và các nhà tâm lý học người Mỹ hay “những người theo lý thuyết học tập” (learning theorists) từ B. F. Skinner đến Jerome Bruner và Howard Gardner cũng gắn với quan điểm thực nghiệm này.

Vào thế kỷ 18, một quan điểm lý thuyết khác hình thành. Immanuel Kant mô tả các loại nhận thức luận (epistemological), như thời gian, không gian, số và quan hệ nhân qủa mà con người cần thiết áp đặt vào nhận thức và tình cảm của họ. Các cá nhân có nhận biết từ trải nghiệm, song trải nghiệm đó có tính tạm thời, bề mặt và có tính nhân qủa. Vấn đề của những người theo chủ nghĩa Kant có nhiều ảnh hưởng đến chương trình nghiên cứu của nhà tâm lý học phát triển thế kỷ 20, Jean Piaget, người đã tìm cách mô tả sự phát triển của các thể loại trải nghiệm ở trẻ nhỏ. Giống như Jean-Jacques Rousseau, đồng hương của Kant và là người cùng thời với Kant, phân biệt rõ tài năng trong trí óc của trẻ em và tin rằng đối với đứa trẻ tri thức lộ ra từ bên trong hơn là áp đặt từ bên ngoài.

Kant cũng nhất trí cao với nghiên cứu của Rousseau về cái được thông báo là khả năng hòa hợp của tự nhiên và văn hóa thông qua phương tiện của “lý do thực hành” như một nguồn thay thế trong một thế giới cần các quy luật của tự nhiên song không thể trích rút quy luật đó từ tự nhiên (Cassirer, 1954). Làm như vậy, Rousseau đã nói đến mối bận tâm cơ bản của nhân học thế kỷ 20 và trong tầm nhìn của Levi-Strauss cuộc “Ngôn thuyết thứ hai” là không còn nghi ngờ gì luận thuyết nhân học đầu tiên trong văn học Pháp. Trong thực tế, theo hầu hết các thuật ngữ hiện đại, Rousseau nêu lên một vấn đề trọng tâm của nhân học, được gọi là bước chuyển dịch từ tự nhiên sang văn hóa: “Chủ thể của cuộc ngôn thuyết này chống đỡ rằng giây phút trong tiến bộ của sự vật khi, với bạo lực kế tiếp, tự nhiên còn tùy thuộc vào quy luật” (Rouseau, 1967: 62).

Chắc chắn có một ảnh hưởng lớn được gắn với sự phát triển của tư tưởng tiến hóa, giải phóng chủ từ các tri thức của Charles Darwin, người đã nhấn mạnh các tiếp nối giữa loài người và động vật và tầm quan trọng của khả năng tâm lý đối với cái đã cho phép các cơ quan cá thể tồn tại cho đến khi tái sản sinh. Ngay khi các ẩn ý trong các nghiên cứu của Darwin được làm rõ, cách nghĩ của ông đã thống trị các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học quan tâm đến học tập và văn hóa. Thế hệ thứ nhất các học giả hiện đại không lùi bước trước việc tham gia vào các hình thức lý lẽ phức tạp về loài người và các loài động vật khác. Nhưng vào đầu thế kỷ 20, lãnh địa gần như được nhượng lại hết cho các nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến sự tiếp nối ở tất cả các vương quốc loài vật bất chấp các vấn đề ngôn ngữ, ý thức và suy luận có trật tự cao và cố gắng lý giải bất kỳ một thành tựu học thuật nào trong khuynh hướng quy nạp và rè xẻn.

Trong thực tế, cách tiếp cận này, như được biểu hiện trong các nghiên cứu của các nhà tâm lý học tiến hóa và các nhà ứng xử gen, có thể vẫn còn có ảnh hưởng đến sự phát triển máy tính tốc độ cao và các chương trình phức tạp, cho phép các thực thể điện tử tính toán và giải quyết nhiều vấn đề của con người. Một khi máy tính có thể bắt chước các qúa trình tư duy của con người, và trong quan điểm của nhiều người, tự thúc đẩy theo thời gian đến cấp độ hoạt động cao hơn, thì các nhà khoa học không thể giữ lại các tài năng trí tuệ của riêng con người. Vì thế làm sản sinh một cuộc cách mạng nhận thức, một phong trào tri thức quan trọng trong số các nhà khai sáng là các nhà khoa học máy tính như Herbert Simon và Marvin Minsky, nhà tâm lý học George Miller và Jerome Bruner, nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky và nhà nhân học Claude Levi-Strauss. Cuộc cách mạng nhận thức giờ đây là một lĩnh vực liên ngành cố gắng cung cấp câu trả lời khoa học đối với các vấn đề nhận thức luận.

Trong nhân học, sự công kích chính đối với nhận thức luận kiểu Levi-Strauss cho rằng qúa trình tư duy diễn ra theo các loại hình và yêu cầu tạo ra các phân biệt, và rằng không phải là nội dung mà là các loại hình và sự khác biệt đã bóp méo bản chất “thật” của đối tượng tư duy. Nếu, như Levi-Strauss tin thế, “hoạt động vô thức trung gian của trí óc bao gồm các hình thức áp đặt lên nội hàm” (1958b: 28), việc Ricoeur đặc tính hóa nhân học cấu trúc là một “chủ nghĩa Kant không có chủ thể siêu việt” (Ricoeur, 1969: 55) là một đoạn có thể chính Levi-Strauss nhanh chóng hoan nghênh (Levi-Strauss, 1964: 19). Giống như Kant, ông khẳng định rằng thế giới được quan sát thông qua các cảnh tượng tiền cấu trúc. Không có gì được quan sát như nó vốn có, mà nó chỉ được cấu tạo một cách khái niệm trong mối quan hệ với các sự vật khác mà qua đó nó khác biệt, và tư duy tùy thuộc vào ngôn ngữ và vì thế tùy thuộc vào các loại hình mà một nền văn hóa chọn ra.

Các lập luận này hình thành nên tâm trí của Levi-Strauss cần thiết áp dụng với các sự vật như thể là giới hạn và phổ quát như các loại hình tư duy của Kant, chúng vừa là lịch sử vừa là văn hóa vì chúng “về cơ bản giống nhau giữa các trí óc, cổ đại và hiện đại, nguyên thủy và văn minh, như nghiên cứu về chức năng của biểu tượng được thể hiện trong ngôn ngữ đã chỉ ra rất rõ” (Levi-Strauss, 1958b: 28). Theo nghĩa nào đó, chúng cũng trống rỗng như các hình thức có nghĩa, như Levi-Strauss cho thấy trong mối tương quan với “tính hiệu qủa của biểu tượng”:

Cái vô thức luôn trống rỗng, hay chính xác hơn, nó xa lạ đối với các hình ảnh tinh thần như là dạ dạy đối với thực phẩm trôi qua nó. Là một cơ quan có một chức năng cụ thể, cái vô thức chỉ áp đặt các quy luật cấu trúc lên các thành tố câm có nguồn gốc ở đâu khác, xung lực, tinh thần, sự trình bày và trí nhớ. (Levi-Strauss, 1958c: 224).

Chức năng biểu tượng này được nhận dạng một cách rõ ràng với cái vô thức, là cơ quan của nó, một sự vô thức không phải là tâm lý mà có tính loại hình hơn, mà vai trò của nó bao hàm việc áp đặt các quy luật cấu trúc lên một vấn đề cụ thể nào đó. Cho dù câm và vô hình, các thành tố vươn tới trí óc con người tạo ra ý nghĩa, đạt được tầm quan trọng và trở nên thông minh nhờ có hoạt động mà trí óc cấu trúc lên chúng. Nhờ có giả thuyết cho rằng các hình thức tạo nên sự quan trọng này trở nên phổ quát và không thay đổi. Levi-Strauss phác họa một nguyên tắc phương pháp luận theo đó mà bất kỳ một sự tìm kiếm ý nghĩa nào về bất kỳ một thể chế con người nào đó phải có khả năng khám phá chúng. Hiện rõ trong tất cả các vận hành mà trí óc con người kiểm soát, các quy luật bất biến và phổ quát ở tất cả các cấp độ của lĩnh vực biểu tượng, cũng như ở trong các hệ thống thân tộc và huyền thoại. Trong thực tế, đằng sau diện mạo của tính võ đoán và sáng tạo, chúng che giấu các quy luật hoàn toàn có giới hạn như bất kỳ một sự sản sinh nào của con người. Đối với Levi-Strauss, trung thành với Taylor, “nếu trí óc con người mà kiên định kể cả trong lĩnh vực huyền thoại thì nó phải kiên định trong tất cả các lĩnh vực hoạt động khác” (Levi-Strauss, 1964: 18).

Đây là sự chuyển vế trong triết học Kant đối với nhân học dù các khác biệt tạo nên những kết luận không giống nhau. Là một nhà nhân học, cũng như Kant là một nhà triết học, Levi-Strauss không cảm thấy bắt buộc phải quan tâm đến một chủ đề phản ánh cơ bản nào có các điều kiện để cho tư duy của ông hoạt động hay một khoa học nào riêng biệt đối với xã hội của ông và giai đoạn ông sống để mở rộng các phát hiện bản địa đối với một hình thức hiểu biết mà tính phổ quát của nó không bao giờ vượt qúa giới hạn là các giải thuyết và tiềm năng. Thay vì giả thuyết một hình thức phổ quát về sự am hiểu, nhà nhân học thích nghiên cứu các hình thức thực nghiệm tập thể về sự hiểu biết mà tài sản của chúng được củng cố như nó vốn thế và được biểu lộ trước nhà nhân học dưới các hệ thống cụ thể không thể đếm được về những sự trình bày văn hóa. Tiến sang các hạn chế chủ quan và qúa tả trong các tài liệu dân tộc học qua việc tìm kiến cái có thể chia sẻ bởi một tính nhân văn dẫn đến xa lạ với chúng ta và với cách mà trí óc của chúng ta vận hành, nhà nhân học cố gắng khám phá một hình thái của các giới hạn cơ bản và phổ quát chung cho tất cả mọi trí óc ở mọi nơi. Vì thế, đối với Levi-Strauss, khi tham vọng của ông là:

phát hiện các điều kiện trong đó các hệ thống của chân lý trở nên cùng lúc có thể chuyển dịch và vì thế chấp nhận được đối với một số các chủ thể khác nhau, hình thức của các điều kiện tạo thành tính cách của một chủ thể tự chủ với một thực tiễn của chính nó mà không phụ thuộc vào bất kỳ một chủ thể nào khác. (1964: 19).

Vấn đề trọng tâm trong nhân học của Levi-Strauss là tại sao ở tất cả mọi nơi trên thế giới con người lại kể một số huyền thoại có chọn lọc, thờ cúng một số tôtem, và cho phép hay ngăn cấm một số các hình thức hôn nhân. Nếu chúng tồn tại ở mọi nơi theo cách đó, chúng phải có một công cụ trí óc đưa chúng đến chỗ hành động theo cách đó.

Một ý tưởng trọng tâm có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu của Levi-Strauss là khái niệm cho rằng ứng xử xã hội luôn được thực hiện trong sự quy chiếu tới một kế hoạch khái niệm, một mô hình trong trí óc của người hành động về việc sự vật là gì và chúng phải là gì. Hưởng lợi từ chủ nghĩa Marx và chấp nhận “tính ưu việt không thể chối cãi của cơ sở hạ tầng” và “thói quen của các nhóm xã hội”, ông muốn “quy nạp” nhân học vào một lý thuyết về thượng tầng có vấn đề chủ thể không đổi về tư tưởng song các lược đồ tinh thần trung gian giữa thói quen cơ sở hạ tầng (hành động của con người) và các thực hành thượng tầng (các thể chế văn hóa) qua việc làm sáng tỏ một hệ thống khái niệm là một yếu tố vận hành tổng hợp giữa các ý tưởng và thực tiễn (Levi-Strauss, 1962b: 173-4).

Durkheim đã hậu thuẫn loại hình lý giải xã hội học này, vì các hiện tượng xã hội là “các hệ thống chủ quan của các ý tưởng”. Nhưng cùng lúc, ông cũng ủng hộ “thực nghiệm có phương pháp” để tìm hiểu về các thực tế xã hội như thể chúng là “các sự vật” (Durkheim, 1988). Những khó khăn về lý thuyết mà Durkheim gặp phải khi ông dựa vào các trạng thái tình cảm tập thể như là một thực tế lý giải cuối cùng chỉ là một sự biểu đạt của một công thức hóa không phù hợp về vấn đề. Các thành tựu biểu tượng mà Durkheim đã tìm kiếm để lý giải từ góc độ xã hội học chỉ đơn giản không thể lần theo các thực tế xã hội vì chúng làm gia tăng yếu tố xã hội ngay từ đầu.

Levi-Strauss đảo ngược vị trí của Durkheim bằng cách đạt nguồn gốc của khía cạnh biểu tượng của các hiện tượng văn hóa trong các hoạt động biện chứng của trí óc con người và không phải theo cách mà xã hội được tổ chức. Levi-Strauss lập luận rằng bằng định nghĩa hệ thống biểu tượng là một chuỗi các quy luật làm cho đời sống xã hội có thể và cần thiết, rằng nó điều khiển bản chất của con người và các sản phẩm văn hóa của họ, và tóm lại là điều kiện của ý nghĩa. Vì thế, nó phải là nghiễm nhiên như hình thức của Kant. Tin tưởng rằng các hình thức tư tưởng biểu tượng là được trao cho chứ không thể giải thích hơn về góc độ xã hội, ông coi đặc tính kết nối liên chủ thể về các biểu tượng chung thông qua đó một trật tự xã hội được tạo thành như đã gắn kết vào trong các thực tế tiền xã hội, được xác định một cách có chương trình như là “hành động vô thức của trí óc con người” có thể tạo ra tiếp cận lý thuyết.

Tạo nên một cuộc chuyển đổi nhận thức trong nhân học, Levi-Strauss đã giải quyết sự tự mâu thuẫn của Durkheim giữa các phương pháp biện chứng và thí nghiệm bằng việc lập luận rằng thông qua trung gian của các lược đồ khái niệm, ý tưởng và thực tế được biến thành các tín hiệu và hoàn thành như là các cấu trúc, đó là “các sự vật cả về thực nghiệm và dễ hiểu” (1962b: 173). “Các hệ thống ý tưởng khách quan” của Durkheim là vô thức hay được đặt dưới các cấu trúc tâm lý vô thức, cái làm cho chúng có thể giải thích các hiện tượng xã hội, có thể trình bày đặc tính ý nghĩa của toàn thể và các hệ thống cấu trúc như thế nào. Levi-Strauss cho rằng vì con người liên lạc với nhau bằng các phương tiện biểu tượng và tín hiệu và vì các hiện tượng xã hội được làm cho có thể thông qua trung gian cơ bản của các lược đồ khái niệm, các lĩnh vực văn hóa là “có chửa với ý nghĩa”, mà lý giải phù hợp nhất phải biện chứng như đối lập với cái cơ học. Vì thế, các hiện tượng xã hội thể hiện đặc tính của “sự vật” song cùng lúc có thể được coi là các ý tưởng được xem lại trật tự lôgic của chúng.

Đối với Levi-Strauss, trong các xã hội ông nghiên cứu, dường như không có mối liên hệ chặt chẽ giữa các chi tiết của đời sống vật chất và sự đa dạng của thực tiễn xã hội. Cả các nhân tố kinh tế và môi trường đều không thể lý giải cho sự đa dạng của các hệ thống thân tộc cá nhân hay các nét đặc thù của hành động văn hóa. Kể cả nếu nó có thể thì tính phổ quát của các hình thái cấu trúc vẫn có thể cần phải giải thích. Chối bỏ mối liên hệ mật thiết giữa các chi tiết của đời sống vật chất với các ý tưởng, ông đánh một dấu mốc bằng việc cho rằng chất lượng của sự chọn lọc trí tuệ là một vấn đề “tốt để nghĩ đến” (1962a: 132). Các hệ thống thân tộc được hình thành thông qua các nền văn hóa là điều lý tưởng giống như kiểu ngôn ngữ tồn tại trước cá nhân con người. Vì thế, các lập luận này là một chuỗi các quy định mà trật tự lôgic vô thức của chúng phải được con người sử dụng để tạo nên thế giới của họ. Nói cách khác, các loại hình tinh thần và khả năng trí óc của con người được xem là các hoạt động tinh thần đầu thai, được hiển hiện trong các hệ thống biểu tượng văn hóa về thế giới xã hội trong hầu hết các xã hội khác nhau.

Nếu như chúng ta tin thế, hành động vô thức của trí óc bao gồm việc áp đặt các hình thức lên nội hàm và nếu các hình thức này cơ bản giống nhau trong tất cả mọi trí óc, như cổ đại và hiện đại, nguyên thủy và văn minh, thì nó thật cần thiết và có đủ cơ sở để nắm bắt được cấu trúc vô thức tiềm ẩn bên dưới mỗi thể chế và mỗi tập tục nhằm mục đích đạt được một nguyên tắc lý giải chân xác về các thể chế và tập tục khác. (1958b: 28).

Dù quan tâm đến các cấu trúc tinh thần, Levi-Strauss chưa bao giờ bỏ qua các mối quan tâm thực nghiệm, mà thay vào đó, ủng hộ việc nhà nhân học phải tìm cách khám phá các cơ chế của tư duy khách quan vô thức trên cơ sở dân tộc chí (1962b: 63, 1964: 10-11; 1971: 562). Phân tích cấu trúc “cho thấy đằng sau hiện tượng là một sự thống nhất và một sự cố kết có thể không được nhận biết thông qua một mô tả đơn giản về thực tiễn, có thể nói là ‘được bài trí ngang bằng’ và được trình bày với một trật tự ngẫu nhiên để đạt được tinh thần. Bằng việc thay đổi cấp độ quan sát và xem xét đằng sau các sự kiện thực nghiệm đối với các mối quan hệ giữa chúng, nó “tiết lộ và khẳng định rằng các mối quan hệ này đơn giản hơn và dễ hiểu hơn các sự vật chúng kết nối, và bản chất tối thượng của chúng có thể vẫn còn không thể dò được mà không có sự tối nghĩa xác định hay tạm thời là một vật cản đối với diễn giải” (Levi-Strauss 1971: 614).

Nhận thức như thế hiểu được các loại hình của những cái có cảm giác (cái chín và sống, tươi và thối, luộc và nướng) hay các thực tiễn tâm lý và trí tuệ; nó góp phần làm cho trí thông minh giải mã các mạng lưới cho biết thực tiễn trong cấu trúc mà một người theo chủ nghĩa thực nghiệm ngây thơ có thể không có khả năng khám phá. Theo cách tương tự, dù nó là huyền thoại học, nhân học hay xã hội học đều quản lý tất cả các vận hành của trí óc con người. Vì thế, có thể khẳng định về một giả thuyết cơ bản được hình thành từ năm 1955. Chống lại mãnh liệt các cám dỗ của chủ nghĩa thực nghiệm, khái niệm hóa trong thực tế biết đến một mô hình đơn nhất chỉ khi các chủ thể của nó khác đi: “Những sự giống nhau không còn thuộc về lĩnh vực quan sát thuần túy, mà chúng được hiểu như là các thực thể hợp lý. Chúng không còn chỉ là quan sát được mà trở thành có thể chứng minh được” (Levi-Strauss, 1971: 32-2).

Levi-Strauss công nhận rằng ứng xử thực tế của các cá nhân có thể hàm chứa tính bất quy tắc và ứng biến. Nhưng trong quan niệm của ông, các thực hành này là một sự biểu đạt của các kế hoạch lý tưởng có trật tự của các tác nhân, giống như kế hoạch lý tưởng chính nó là một chương trình cho hành động được tạo nên bởi thói quen của toàn thể xã hội. Chúng ta có thể thường hay so sánh hình thái các quan hệ kết nối các chuỗi ứng xử của con người, song chúng ta sẽ không nhận biết được điều gì nếu chỉ đơn giản so sánh các thành tố văn hóa đơn nhất như là các thực thể tách biệt. Bất kỳ một trường hợp thực nghiệm cụ thể nào cũng chỉ là một hình thức thay thế từ một tổng thể các khả năng, là một hệ thống tổng thể, với một chủ đề và các biến đổi. Nghiên cứu về các hiện tượng thực nghiệm vì thế là một phần quan trọng của một qúa trình khám phá song nó chỉ là một phương tiện để đi đến kết qủa.

Nhấn mạnh đến cái thực nghiệm qủa thực ít nghịch lý hơn nó vẫn tưởng, vì nó hình thành dải kết nối giữa sự công kích chủ nghĩa vật chất đối với nghiên cứu đầu của Levi-Strauss về thân tộc và sau đó là về sự phát triển trí tuệ. Nhân học chỉ hiển nhiên là một nghiên cứu về phong tục, niềm tin và thể chế. Về cơ bản, khảo sát nhân học là một nghiên cứu về tư duy. Đối với Levi-Strauss, nhân học phải khám phá các cấu trúc ẩn mình dưới sự đa dạng của văn hóa con người, tức mức độ mà các cấu trúc quy chiếu đến các đặc tính của trí óc loài người và các chức năng biểu tượng tạo nên đặc tính của cấu trúc. Trong khuôn khổ dự án này, mục tiêu của nhân học cấu trúc là tiến đến các cấu trúc chung ở mức độ phổ quát cho tất cả mọi xã hội, tuyệt đối tới mức chúng là các loại hình phổ quát của trí óc con người, nghĩa là các biến cấu trúc được tổ chức thành các hệ thống ý nghĩa.

Tuy nhiên, khảo sát khía cạnh vô thức của hành động xã hội và chương trình cấu trúc vẫn chưa được thực hiện trên cơ sở các tìm hiểu dựa trên cơ sở vật chất nhiều hơn. Sự công kích vật chất của Levi-Strauss chỉ được thay thế và điều chỉnh trọng tâm vào “các cấu trúc cơ bản của trí óc con người”, làm cho ông ta không cần đến các buộc tội của cả chủ nghĩa lý tưởng lẫn chủ nghĩa vật chất thô thiển. Trải nghiệm thực nghiệm và phân tích về các quy trình cấu trúc trong nhân học trong bất kể một lĩnh vực nào, vốn có thể được các tiên đoán triết học và siêu hình kế tục, đạt được lợi thế đóng góp vào một “sự sói mòn thoái lui” của tất cả mọi triết học được biết đến (Levi-Strauss, 1971: 570) theo một cách để đưa các nhà triết học trở lại cái mà Nietzsche đã từng gọi là “ảo ảnh” của chúng. Levi-Strauss sau đó có thể duy trì các mối quan tâm thực nghiệm của ông và ngoài tầm với chối bỏ các phê bình được thực hiện theo cách này, mà các quan tâm thực nghiệm này lý giải vì sao ông lại không mặn mà với hậu chủ nghĩa cấu trúc (poststructural thought) cho dù ông là một trong những kẻ chủ mưu đầu tiên (Doja, sắp đăng, 2006).

Các đặc tính của cái mà Levi-Strauss gọi là “trí óc mông muội/savage mind” cùng lúc được cấu trúc và đang được cấu trúc. Tính ưu việt của các hình thức vô thức có nguồn gốc từ thực tế là chúng thể hiện một cách thức cởi trói cho và sản sinh ra một thế giới. Chối bỏ các diễn giải theo kiểu sử học, chức năng và nét đặc thù văn hóa, Levi-Strauss đã mở ra một lĩnh vực ý nghĩa. Vì vấn đề ý nghĩa được định vị trong một sự đa dạng của văn hóa, vị trí không thể giản lược về bản sắc con người đã được sác lập. Nếu có các quy luật về tầm quan trọng phổ quát tạo nên ý nghĩa đằng sau sự đa dạng văn hóa hiển nhiên thì rõ ràng là phải có một cấu trúc tinh thần phổ quát.

Chân trời hùng biện: Hướng tới nền nhân học tương lai

Không nghi ngờ gì nữa, đối với Levi-Strauss, cái vô thức được hiểu là đang tồn tại khách quan có mối liên hệ với bản chất sinh học của loài người, tới cấu trúc của trí óc và các thể thức cấu trúc riêng biệt của nó. Khác với vô thức phân tâm học, vô thức cấu trúc tiết lộ một khung chính thức hay một kiến thúc nhận thức mà Levi-Strauss vừa kêu gọi vừa tiên đoán. Nếu chúng ta ấn định tính nổi trội của đặc tính loại hình của cái vô thức thì cái biểu tượng sẽ phơi bày sự khác biệt rộng nhất đối với con người theo một cách làm gắn kết tất cả các khía cạnh khác lại. Tuy nhiên, nguồn gốc của cái khác biệt lại chỉ được tìm thấy trong chính “kiến trúc” của não như một bộ phần gắn kết với thực tiễn thời gian và không gian.

Các giả thuyết cấu trúc vì thế có những tác động không thể chối cãi, thậm chỉ nếu chúng không phải luôn được tiếp đất và luôn màu mở. Nhân học cấu trúc tạo nên một chuỗi nguyên gốc các phản ánh về các khía cạnh văn hóa và xã hội của đời sống con người và phương pháp luận cấu trúc dựa trên các giả định không phải lặp thừa mà cũng không phải thứ yếu song liên quan đến bản chất của thực tế nhân tính.

Với đặc tính bất hủ của nó, nghiên cứu của Levi-Strauss khêu gợi các đặc tính của những cha đẻ của nền nhân học (Sperber, 1982: 125), từ L. H. Morgan đến Sir James Franzer, trong khi theo cách mà ông cân đối giữa không gian với tinh thần và vật chất, ông tiên đoán về một đòi hỏi chương trình mảnh liệt đối với một tiếp cận khoa học mở rộng và một nền nhân học lý thuyết sẽ ra đời. Nhân học của Levi-Strauss là một ngành học theo mô hình lý thuyết, một khoa học quy nạp và chính xác. Đối tượng của nó vẫn là tâm lý, vốn đã là đối tượng của E. B. Taylor. Tuy nhiên, sự tìm kiếm của nó lên đến cực điểm không chỉ trong tái cấu tạo giả thuyết của con đường cách mạng tiến đến chủ nghĩa hiện đại kỷ nguyên Ánh sáng mà thay vào đó là trong sự giải thích về “ngữ pháp” phổ quát, các ý nghĩa cấu trúc và đang cấu trúc của chính trí óc. Levi-Strauss đề xuất phát triển một phân tích về các thao tác của trí óc con người, nhưng không giải quyết đến các cấu trúc tâm lý của các cá nhân hay thậm chí tổng thể các cấu trúc của một xã hội, mà đi xa hơn giải quyết lược đồ tổ chức của bất kỳ một xã hội nào.

Với sự thủ mưu của Levi-Strauss, tiếp cận nhân học có thể thỏa hiệp ba cấp độ theo mối quan hệ kép của phương pháp luận và chủ thể phân tích, đi từ các nghiên cứu trường hợp đến mô tả các quy luật phổ quát. Gợi lên một cách thận trọng từ dự án theo thuyết phổ quát cổ vũ nhân học triết học, nhân học cấu trúc ngụ ý rằng một đẳng cấp các phương thức và đối tượng của tri thức trong khi dân tộc chí và dân tộc học là các thuật ngữ khác, không phải theo một trật tự thoái bộ về phẩm giá, song theo biểu đạt bên trong của chúng trong khuôn khổ các giai đoạn khác nhau của tiếp cận khoa học. Với bước chuyển dịch từ cái cụ thể sang cái chung, một qúa trình tổng hợp chính thức được bảo toàn cho xã hội học, Levi-Strauss đã thiết lập tính hợp pháp của một nền nhân học lý thuyết có nhiều khác biệt và đồng thời bổ trợ cho dân tộc chí như vật lý học lý thuyết khác biệt và bổ trợ cho vật lý học thí nghiệm. Thêm vào đó, trong nỗ lực vượt qua mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tổng thể, ông cho thấy xã hội học trong nghiên cứu tổng thể các cá nhân sử dụng “các mô hình thống kê” và nhân học trong nghiên cứu tính gắn kết của các cấu trúc xã hội sử dụng các “mô hình cơ chế” (1958f: 311-13) ấp ủ cùng một loại quan hệ với nhau như thể động nhiệt học với cơ học lượng tử trong vật lý học hiện đại, như chúng nghiên cứu ứng xử tập thể và cấu trúc bên trong của nguyên tử và phân tử.

Các nghiên cứu ban đầu của Levi-Strauss không chỉ tạo nên một bước đi đầu tiên trong nghiên cứu cấu trúc về thân tộc. Điều thú vị về tác phẩm The Elementary Structures of Kinship (1967) là đóng góp của nó đối với chuyên ngành đặc biệt chuyên sâu của nhân học đi kèm với một đóng góp phổ quát hơn đối với lý thuyết xã hội. Levi-Strauss không chỉ đơn giản quan tâm đến việc truyền tải một loại hình trật tự về vô số các tài liệu tích tụ trong các quan hệ thân tộc, là cấn đề có nhiều tranh luận trong lĩnh vực chuyên ngành về nghiên cứu thân tộc, mà cũng quyết định các nền tảng lý thuyết của đóng góp khoa học của ông đối với nhân học nói chung. Các loại hình liên minh cơ bản cung cấp một mẫu hình đầu tiên về các nguyên tắc tổ chức của văn hóa và khả năng của các nguyên tắc này trong việc tạo ra một số lượng có hạn các hình thức cố kết. Trên cơ sở đó, dường như nhân học có dịp rút ra một danh mục có hệ thống các hình thức xã hội ổn định về mặt cấu trúc (Scubla, 1998). Các nguyên tắc của nhân học cấu trúc có vẻ giống với các nguyên tắc của vật lý lượng tử cung cấp chìa khóa cho các cấu trúc nguyên tử. Hơn thế nữa, Levi-Strauss trong khoa học xã hội, giống như Eistein trong khoa học tự nhiên, qua việc tạo ra hình thái chính xác về cấu trúc chuyển đổi của huyền thoại và tính tương đối của sự phổ quát, đã quy chiếu đến những điểm này một địa vị giống nhau của các đối tượng tuyệt đối.

Năm 1676, Isaac Newton đã quy chiếu nghiên cứu của chính mình về quang học bằng việc tuyên bố rằng “Nếu tôi đã nhìn xa hơn thì đó là do tôi đứng trên vai của những người khổng lồ”. Thật không may và có hại đối các ngành khoa học xã hội và nhân học, song khác với các ngành khoa học tự nhiên mà Stephen Hawking (2002) gần đây đã rất tôn kính, tất cả chúng ta thường có xu hướng lãng quên đôi vai của những người khổng lồ, không phải là vì không tôn kính họ mà là vì sự gia tăng của thế giới cá nhân chủ nghĩa trong chúng ta. Có lẽ Levi-Strauss chưa hẳn là Enstein (1958h: 180) mà ông tin rằng nhân học đang tìm kiếm, hay là nhà vũ trụ học Mendeleyev trong khoa học xã hội mà ông phấn đấu trở thành (1955: 203). Tuy nhiên, bằng việc sơ đồ hóa một bảng thời gian về các ngành học trong đó nhân học tìm thấy vị trí của mình (1973c: 350-1) qua việc tạo nên “nguyên tử thân tộc” được chào đón theo tinh thần vật lý mới (1958a: 58) và bằng việc quy chiếu đến các lược đồ huyền thoại địa vị của “các đối tượng tuyệt đối”, (1964: 21) mà chỉ có thể trở thành dễ hiểu thông qua việc sử dụng một “công thức chuẩn” (1958h: 252-3), ông cảm hứng điều này trong các nghiên cứu của mình với một ý thức về thiên hướng nhân học, cảm giác tham gia một cuộc mạo hiểm tri thức mới rất sáng lạng và đầy hứa hẹn.

Hơn bất kỳ điều gì khác, Levi-Strauss làm sáng rõ một không gian tưởng tượng cho các thế hệ nhà nhân học sau đó và tầm quan trọng học thuật của ông giờ đây không còn gì phải bàn cãi. Danh tiếng của nhân học mang nợ ông nhiều và danh tiếng của ông trong các nhà nhân học cũng vẫn còn đang được tán dương. Dù nghiên cứu của ông không phải dễ dàng hiểu hết đối với những kẻ ngoại đạo, mà cũng không hoàn toàn được xác nhận một cách chắc chắn, còn lâu mới được như thế, và bất chấp tất cả các lời chỉ trích liên quan đến nghiên cứu của ông, uy tín và sự lỗi lạc trong các vấn đề mà ông đặt ra trong các khu vực trọng tâm như thân tộc, phân loại huyền thoại đã làm thay đổi cơ bản cách thức mà các nhà nhân học nêu vấn đề và xác định vấn đề chủ thể của họ. Thế hệ của ông đã đạt tới các quy mô lớn mà họ dường như đã tạo ra một mục tiêu dễ dàng cho các phê phán thù địch và có thể một vài mảnh vá yếu ớt trong lập luận của Levi-Strauss. Thật dễ dàng để chứng minh rằng ông đôi khi sai ở những vấn đề cụ thể, song điều này không làm giảm giá trị đồ sộ của ông trong các khái quát cơ bản mà ông nêu ra. Cho dù tác động tương lai của nghiên cứu do ông thực hiện và thậm chí nếu thời gian gợi lên các vấn đề và giới hạn trong phân tích cấu trúc, phương pháp cơ bản của lý thuyết của Levi-Strauss vì thế có thể được phân tích, thậm chí còn ít ảnh hưởng hơn những năm 1960, nó sẽ không bao giờ bị mất đi. Nó là một thành tựu trí tuệ vẫn chưa thể vượt qua và có thể được đổi mới.

Nhân học của Levi-Strauss trước hết là một phương pháp tri thức gốc, được phát triển cùng lúc với xử lý các vấn đề đặc biệt đối với ngành học song đối tượng của nó về nguyên tắc rất lớn và tính sinh sản của nó thật đáng kinh ngạc làm cho nó nhanh chóng có ảnh hưởng vượt qua giới hạn của lĩnh vực nghiên cứu ban đầu. Theo nhiều cách, chương trình mà ông tạo dựng cho nhân học trở thành một “một ngành khoa học bình thường” cho ngành học như là một tổng thể đến mức như vốn ban đầu ông liệt kê cũng như sự đa dạng của hiện tượng mà ông cố gắng làm sáng tỏ, ông là một điểm quy chiếu không thể thiếu dưới góc độ tất cả các thế hệ nhà nhân học kế tiếp bất chấp lĩnh vực hay định hướng chuyên môn đều giữ việc xác định tiếp cận, cho dù họ có gắn kết với các điểm này hay không. Tuy nhiên, chỉ có một số ít các nhà nhân học thực hành những phương pháp này một cách có hiệu qủa mà vốn đã được chính Levi-Straus kiểm nghiệm. Những người khác, thậm chí ít hơn, đã thành công trong việc mở rộng giá trị của lĩnh vực mình bằng việc tái công thức hóa các giả thuyết của mình. Song điều này chính nó ngụ ý rằng tác động của nhân học cấu trúc không chỉ giới hạn ở các thành tựu kinh ngạc được tạo dựng ở tính chính đáng ban đầu của nó.






(*)Tên gốc và tác giả của bài là: Albert Doja 2006. “The shoudlers of our giants: Claude Levi-Strauss and his legacy in current anthropology”. Social Science Information, Vol. 45 (1), pp. 79 - 107. Phần dịch sang tiếng Việt không kèm theo tài liệu tham khảo của bài gốc; độc giả nên đọc bản gốc tiếng Anh nếu có nhu cầu xem các tài liệu tham khảo hay trích dẫn nội dung của bài viết.
Theo: http://www.anthdep.edu.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.